| 
   
Mục 
đích của bài viết 
Ai cũng nhận thấy giáo dục là lĩnh vực quan trọng và lâu nay 
ngành giáo dục bị phê phán nhiều. Đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quốc 
hội và Chính phủ, nhiều hội nghị, hội thảo được tổ chức để hiến kế, để tìm biện 
pháp khắc phục, nhưng giáo dục vẫn chưa đáp ứng được nguyện vọng của toàn xã hội. 
Lý do và cách khắc phục? Theo chúng tôi, đây là bài toán rất khó, không chỉ đối 
với Việt Nam mà đối với toàn thế giới, nhất là đối với các nước nghèo, chậm phát 
triển. Trong bài viết này, bằng những bài học và kinh nghiệm quốc gia và quốc tế, 
chúng tôi sẽ cố gắng chứng minh rằng hội nhập quốc tế một cách nhanh 
chóng, thực sự và toàn diện, từ tư duy đến hành động, là giải pháp quan trọng nhất 
hiện nay để
đổi mới căn bản, toàn diện và phát triển nền giáo dục 
Việt Nam theo hướng hiện đại nhưng vẫn gìn giữ được bản sắc dân tộc.   
Hai nội 
dung chính của bài viết 
▪ Qua thực tiễn 
ở các quốc gia phát triển nhanh chóng và bền vững, nói riêng là ở các nước mới 
“hóa rồng”, (những) người lãnh đạo đất nước đều có tâm sáng, có tầm nhìn 
chiến lược và quyết sách đúng, phải thực sự xem khoa học và giáo dục là 
quốc sách hàng đầu và lấy nguồn nhân lực làm “bệ phóng”. T. Hesburg đã nói: 
“Điều cốt lõi nhất mà người lãnh đạo phải có chính là tầm nhìn”. 
▪ 
Chúng tôi cho rằng để cải cách và phát triển giáo dục Việt Nam theo định hướng của 
Đảng và Nhà nước thì cách tốt nhất vẫn là hội nhập với thế giới văn minh, hay 
nói cho mạnh hơn là phải quốc tế hóa nhanh chóng và triệt để nền giáo dục 
nước nhà.   
Văn kiện Đại 
hội Đảng CSVN lần thứ XI đã chỉ rõ nhiệm vụ của ngành giáo dục: “Phát 
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào 
việc
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát 
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Trong bài 
này, chúng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc “hội nhập quốc 
tế” trong quá trình “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân”. 
Vì khi đã gia nhập WTO rồi thì nguồn nhân lực của chúng ta phải bảo đảm chất 
lượng và hiệu quả cạnh tranh toàn cầu và hội nhập quốc tế. Do đó cần phải lấy 
những kinh nghiệm, chuẩn mực và giá trị quốc tế tiên tiến làm cơ sở và đích đến 
cho nền giáo dục của chúng ta. Nói cho gọn lại là phải quốc tế hóa nhanh chóng 
và toàn diện nền giáo dục nước nhà để tạo ra những thế hệ người Việt Nam mới, 
thành thạo các kỹ năng sống và làm việc trên phạm vi toàn cầu. Chúng ta có thể 
yên tâm, không sợ “mất bản sắc dân tộc”, vì qua thực tế hơn nửa thế kỷ gửi nhiều 
vạn lưu học sinh Việt Nam đi du học nước ngoài, tuyệt đại đa số thanh niên, sinh 
viên chúng ta vẫn gìn giữ, phát huy tình yêu đất nước và cốt cách Việt. 
  
1.     
Giáo dục là lĩnh vực rất quan trọng nhưng rất khó làm; 
giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, ngành giáo dục và đào tạo trực tiếp điều 
hành và chịu trách nhiệm, nhưng vai trò chỉ đạo cao nhất vẫn thuộc về Đảng và 
Nhà nước 
▪  
Tại sao có thể nói 
như vậy? Vì Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ IX đã nhấn mạnh: “ Phát triển 
khoa học và công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là 
nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ”. Để thực hiện quốc 
sách hàng đầu thì sự định hướng và chỉ đạo vĩ mô với trách nhiệm cao nhất của 
Đảng và Nhà nước đóng vai trò quyết định. Nguyên PCTN Nguyễn Thị Bình và nguyên 
Bộ trưởng Giáo dục, GS. Phạm Minh Hạc đã nói:  
Đừng mong cải cách 
giáo dục khi Đảng và Nhà nước không “ra tay”. 
Nếu như Đảng và Nhà nước không “ra tay” đổi mới giáo dục thì chẳng có sự đổi mới 
nào thành công được.  
GS. Hoàng Tụy cũng đã nhấn mạnh 
sự cần thiết của cải cách giáo dục theo đúng nghị quyết của Đảng: Cải cách giáo 
dục mạnh mẽ, toàn diện, triệt để là giải pháp cứu nguy cho giáo dục, cũng là cứu 
nguy cho phẩm chất Việt Nam khi còn chưa quá trễ.
▪ 
Giáo dục là bài toán rất quan trọng nhưng khó khăn, là sự nghiệp của toàn xã 
hội, nhưng vai trò lãnh đạo và trách nhiệm trên hết thuộc về Đảng và Chính phủ, 
thuộc về (những) người đứng đầu đất nước.   
  
▪ 
Bức tranh toàn cảnh của xã hội có ảnh hưởng ảnh trực tiếp đến giáo dục. Vì vậy 
những lĩnh vực rất quan trọng nhưng khó làm, khó thỏa mãn được đòi hỏi của mọi 
người dân, như giáo dục, y tế, văn hóa, ..., không thể thoát ly khỏi hoàn cảnh 
xã hội. Việc quy kết mọi yếu kém của giáo dục trước hết cho ngành giáo dục là 
đúng, nhưng không nên chỉ quy kết cho cho riêng ngành giáo dục, mà gia đình và 
xã hội cũng có trách nhiệm phối hợp, chia sẻ. 
  
▪ 
Suốt mấy chục năm qua chúng ta đã có nhiều cố gắng, nhiều cải cách, thay đổi 
nhiều đời bộ trưởng giáo dục, nhưng giáo dục vẫn là lĩnh vực chịu nhiều phê phán 
của xã hội, chưa đáp ứng được nhu cầu của toàn dân, đòi hỏi của sự phát triển 
đất nước và hội nhập quốc tế.
Mới nhìn vào có người dễ tưởng làm giáo dục không khó, 
nhiều người có thể làm được, “phán” được. Nhưng càng về sau tôi càng thấu hiểu: 
Nói về một vấn đề cụ thể nào đó của giáo dục thì có vẻ không khó khăn lắm, nhưng 
làm giáo dục thực sự và nhất là làm bộ trưởng giáo dục thì lại là một công việc 
rất khó! Đây là chiếc ghế “nóng” không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên 
thế giới. GS. Ngô Bảo Châu, nhà toán học đầu tiên của Thế giới thứ ba 
được trao Giải thưởng Fields cao quý năm 2010, cũng đã nói: 
“Tôi đã từng đi nhiều nước và nhận 
thấy, hầu như nước nào cũng đều không hài lòng với nền giáo dục của nước mình” 
(xem Dân trí ngày 29/6/2011). 
▪ 
Khi không còn trực tiếp làm quản lý giáo dục nữa, tôi rất tránh nói và “phán” 
một cách chủ quan về lĩnh vực khó khăn này, đặc biệt là không bao giờ dám “chê” 
người này người nọ, người trước người sau, và chỉ xem mình là đúng là chuẩn. Vì 
ngày trước khi còn đương nhiệm, bên cạnh một số việc làm được, cũng có những 
việc tôi làm chưa tốt, làm hỏng. Nếu có ý gì hay thì đóng góp một cách thiện chí 
và xây dựng, nếu không có thì tốt nhất là ngồi im để cho người ta làm, để mình 
tiếp thu và suy ngẫm thêm. Tôi nhớ một câu nói chí lý của một bậc thầy nào đó ở 
phương Đông:  
“Tai hoạ của con người là ở chỗ thích làm thầy người khác” (Nhân 
chi hoại tại hiếu vi nhân sư). 
▪ 
Để minh hoạ thêm cho tính khó khăn của bài toán giáo dục tôi xin nêu một ví dụ 
bằng ... toán học. Trong lịch sử ngành này từ thời cổ đại cho đến tận hôm nay, 
có lẽ không có một bài toán nào mà quá trình đi tìm lời giải cho nó lại khó 
khăn, phức tạp và nhiều sai lầm, bi kịch như Bài toán lớn Fermat. Tuy nhiên Bài 
toán lại được Fermat, một luật sư làm toán nghiệp dư người Pháp, phát biểu dưới 
dạng rất đơn giản mà ngay một học sinh ở lớp đầu cấp II phổ thông cũng có thể 
hiểu được, thậm chí có thể thử giải và nghĩ rằng có thể giải được bằng những 
kiến thức sơ cấp thông thường của số học. Nhưng oái oăm thay, sau 357 năm tồn 
tại, mãi đến năm 1993, Bài toán lớn Fermat mới được một nhà toán học thiên tài 
người Anh tên là Andrew Wiles giải quyết xong. Một bài toán mà thoạt nhìn có vẻ 
đơn giản và sơ cấp, thì người đời dễ bị lừa là nó dễ và có thể giải được bằng 
công cụ đơn giản và sơ cấp. Nhưng để đi tới đích, cuối cùng Andrew Wiles đã phải 
lao động cật lực trong 8 năm liền và phải huy động những thành tựu hiện đại 
nhất, khó nhất của toán học trong thế kỷ XIX và XX để chứng minh được những giả 
thuyết quan trọng, hoàn tất chặng đường cuối cùng của cuộc chạy đua tiếp sức 
đường dài hơn ba thế kỷ của nhiều nhà toán học xuất sắc trên toàn thế giới để 
giải quyết xong hoàn toàn Bài toán lớn Fermat. Cái khó khăn của bài toán giáo 
dục cũng có dạng như vậy! Và phải chăng mỗi khi gặp những bài toán (theo nghĩa 
đen và nghĩa rộng) vô cùng khó khăn và phức tạp thì chúng ta đều phải nghĩ đến 
những giải pháp toàn cục, giải pháp ”quốc tế hóa”? Một ví dụ thời sự khác là để 
giải quyết tình hình lấn chiếm của Trung Quốc ở biển Đông, Việt Nam và các nước 
ASEAN phải hợp tác với nhau và với các nước lớn trên thế giới bằng những giải 
pháp quốc tế hóa. 
  
2.     
Những kinh nghiệm và bài học quốc gia và quốc tế cho thấy 
chúng ta cần phải có quan điểm quốc tế hóa trong cải cách, xây dựng và phát 
triển giáo dục nước nhà 
▪ Quốc tế hóa giáo dục 
(đại học) (Internationalization of (Higher) Education):
 
Theo J. Knight (1993), quốc tế hóa giáo dục đại học là quá trình 
hội nhập quốc tế về giảng dạy, nghiên cứu và dịch vụ của các đại học trên thế 
giới.
Theo Hans De Wit (2011), 
quốc tế hóa trong giáo dục đại 
học tại Châu Âu đã hình thành và phát triển từ 20 năm trước, đầu tiên chỉ là một 
mối quan tâm thứ yếu nhưng dần dà đã trở thành một nhân tố trung tâm.   
"Quốc tế hóa giáo dục là xu hướng mang tính toàn 
cầu, nhằm chia sẻ những kinh nghiệm tốt nhất giữa các quốc gia về mọi lĩnh vực 
trong giáo dục, từ đào tạo tới nghiên cứu, từ phương pháp dạy học tới biên soạn 
giáo trình, từ việc sử dụng công nghệ trong giáo dục tới các nguồn tài liệu học 
tập, từ các vấn đề về giáo viên tới các vấn đề quản lý, kiểm định và đánh giá 
chất lượng. Toàn cầu hóa giáo dục nhằm mục đích cải tổ quá trình học tập cho tất 
cả mọi người và xây dựng những nguyên tắc, giá trị chung giữa các nền giáo dục 
trong bối cảnh thế giới đang tiến tới nền kinh tế trí thức toàn cầu.” (Theo GS. 
Mai Trọng Nhuận). 
▪ Từ năm 1978 
Đặng Tiểu Bình đã chỉ thị phải phải quốc tế hóa nhanh chóng, toàn diện và 
triệt để nền giáo dục Trung Quốc. Năm 1994, tại một hội nghị về đổi mới giáo dục 
Việt Nam, tôi đã mượn ý này và đề nghị cần phải khẩn trương quốc tế hóa nền giáo 
dục nước nhà. Lúc đó có người can tôi không nên nói “mạnh” như thế, nên sau đó 
tôi đã đề xuất “nhẹ” hơn rằng Việt Nam cần phải “hội nhập quốc tế” nhanh chóng 
và triệt để về giáo dục, nhưng vẫn gìn giữ được bản sắc dân tộc.
 
▪ “Hóa rồng” nhờ giáo 
dục:  
Nguyên nhân “hoá rồng” trong 
vòng 25, 50 hoặc 100 năm qua của một số quốc gia, như Nhật Bản, Singapore, Hàn 
Quốc, Trung Quốc,... là khoa học, giáo dục, nguồn nhân lực và nói cho rõ hơn là 
nhà nước đã thực sự hiểu vai trò quốc sách hàng đầu của khoa học, giáo dục và 
quan tâm, chỉ đạo, đầu tư quyết liệt cho nó. Nhật Bản có Vua Minh Trị, Việt Nam 
có Hồ Chí Minh, Singapore có Lý Quang Diệu, Hàn Quốc có Park Chung Hee, Trung 
Quốc có Đặng Tiểu Bình,... Nhiều nguyên nhân, bài học kinh nghiệm quý báu của 
một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây 
dựng đội ngũ trí thức đã được phân tích và đúc kết rất công phu trong một số đề 
tài nghiên cứu mấy năm trước đây. Tuy nhiên, trong 5 hay 7 nguyên nhân “hoá 
rồng” đã được đúc kết của các nước này, tôi vẫn cứ muốn tìm hiểu tận cùng xem 
đâu là nguyên nhân chính, đâu là nguyên nhân số không (đứng trước tất cả các 
nguyên nhân 1, 2, 3, 4,... khác), đâu là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Và 
cuối cùng tôi cho rằng đó là những người lãnh đạo đất nước thực sự coi 
trọng khoa giáo. Cả dân tộc đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo, trung thực và 
khiêm tốn, xung quanh (những) người đứng đầu đủ tâm đủ tầm. Luật sư Nguyễn Trần 
Bạt còn nói: “Nhà nước phải là người đi học đầu tiên” (Đối thoại với tương lai, 
trang 663). 
▪ Hồ Chí Minh luôn kết hợp hài hòa trong giáo 
dục giữa quốc gia và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại, giữa đông và tây; 
người thực sự xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, luôn cổ súy cho sự học và cả 
cuộc đời là tấm gương tự học, học suốt đời 
Hồ Chí Minh và UNESCO đối 
với giáo dục: 
Như chúng ta 
biết, đối với giáo dục ở mỗi nước, những vấn đề sau đây là quan trọng: Triết lý 
và mục tiêu giáo dục, tư duy và phương pháp luận, sự phối hợp giữa gia đình, nhà 
trường và xã hội trong giáo dục, người dạy và người học, chương trình và sách 
giáo khoa, thi cử và đánh giá, môi trường và phương tiện dạy học, điều hành và 
quản lý, đầu tư và tài chính,... Nhưng trước tiên và quan trọng nhất là phải xác 
định cho được triết lý, sứ mệnh và mục tiêu giáo dục phù hợp với đất nước mình. 
Thực ra những vấn đề quan trọng này Hồ Chủ tịch đã nói rõ ngay từ những ngày đầu 
tiên mới khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.   
Chúng  tôi xin minh họa 
điều này: Năm 1996, dựa trên Báo cáo của Hội đồng Delors, UNESCO đã khẳng định 
giáo dục toàn thế giới trong thế kỷ XXI được xây trên bốn trụ cột, đó là “học để 
biết, học để làm việc, học để chung sống với nhau và học để làm người”. Cả nhân 
loại đều thừa nhận chân lý này.Tuy nhiên, nếu để ý chúng ta sẽ thấy về cơ bản tư 
tưởng và chân lý này đã được Hồ Chí Minh viết ra ngay từ tháng 9 năm 1949 trên 
trang đầu của cuốn sổ vàng khi Người đến thăm Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, 
tiền
thân của Học viện Chính trị Hành 
chính Quốc gia Hồ Chí Minh ngày nay: “Học để
làm việc, 
làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc 
và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô 
tư.” Tôi xin đề nghị Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam gửi (nếu chưa) nguyên bản 
bút tích nói trên năm 1949 của Bác kèm theo bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp đến 
UNESCO tại Paris, để thấy Hồ Chí Minh hơn nửa thế kỷ trước đã góp phần xây dựng 
nên bốn trụ cột giáo dục của toàn thế giới do UNESCO khuyến nghị năm 1996 như 
thế nào. 
Hồ Chủ tịch gửi lưu học sinh đi 
du học nước ngoài:  
Trước đây 
khoảng gần 10 năm, tại một hội nghị Việt – Mỹ được tổ chức tại Hải Phòng để bàn 
việc triển khai chương trình học bổng của Quỹ Giáo dục Việt Nam (Vietnam 
Education Foundation, VEF) dành cho sinh viên Việt Nam, đã có một kỷ niệm đáng 
nhớ. Tổng số tiền mà Quỹ này có là 145 triệu USD. Đây là số tiền mà Chính phủ ta 
phải trả nợ thay cho Chính quyền Sài Gòn về các khoản vay phi quân sự mà Chính 
phủ Hoa Kỳ đã cho Chính quyền Sài Gòn vay trong thời gian chiến tranh. Trước khi 
hết nhiệm kỳ thứ hai, Tổng thống Bill Clinton đã ký sắc lệnh có nội dung thay vì 
CHXHCN Việt Nam phải trả trực tiếp cho Hoa Kỳ số tiền này thì CHXHCN Việt Nam có 
thể dùng số tiền này để cử sinh viên đại học và sau đại học sang học tập và 
nghiên cứu khoa học ở các trường đại học có uy tín cao ở Hoa Kỳ, trong những 
ngành khoa học, công nghệ tiên tiến, y học,... Khi đọc kết luận tại hội nghị nói 
trên, Trưởng đoàn đại biểu phía Hoa Kỳ nhấn mạnh: Đây là một cơ hội to lớn và 
hiếm hoi cho sinh viên Việt Nam có thể sang học tập tại Hoa Kỳ, các ông cần phải 
nắm lấy. Tôi đã thay mặt đoàn Việt Nam, cảm ơn Chính phủ Hoa Kỳ và phái đoàn và 
cũng xin nhấn mạnh: Không phải đợi cho đến đầu thế kỷ 21 chúng tôi mới mong muốn 
được gửi sinh viên đi đào tạo ở Hoa Kỳ mà ngay từ ngày 01 tháng 11 năm 1945, chỉ 
hai tháng sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi đã gửi 
thư cho Tổng thống Hoa Kỳ thông qua Ngoại trưởng James F. Byrnes: 
“Thưa Ngài! 
Nhân danh Hội văn hoá Việt 
Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm 
mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ 
văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục 
nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác. 
Nguyện vọng mà tôi đang 
chuyển tới Ngài là nguyện vọng của tất cả các kỹ sư, luật sư, giáo sư Việt Nam, 
cũng như những đại biểu trí thức khác của chúng tôi mà tôi đã gặp. 
Trong suốt nhiều năm nay họ 
quan tâm sâu sắc đến các vấn đề của nước Mỹ và tha thiết mong muốn tạo được mối 
quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý 
tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật 
hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam. 
Tôi thành thực hy vọng kế 
hoạch này sẽ được thuận lợi nhờ sự chấp thuận và giúp đỡ của Ngài, và nhân dịp 
này tôi xin gửi tới Ngài những lời chúc tốt đẹp nhất ”. 
Tôi đã tìm thấy bức thư này 
của Bác tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội và đã chụp sẵn mang đến hội 
nghị để đưa cho các đại biểu Hoa Kỳ. Bức thư này cũng có thể tìm thấy trong Hồ 
Chí Minh Toàn tập, Tập 4 (1945-1946), trang 80-81, và cũng được lưu trữ tại U.S. 
Government Printing Office, Washington, 1971, p.90, United States – Vietnam 
Relations 1945-1967. Rất tiếc bức thư đầy thiện chí này của Bác đã không được 
hồi âm. Như vậy phải hơn nửa thế kỷ sau, mong muốn gửi thanh niên Việt Nam đi du 
học ở Hoa Kỳ của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới được thực hiện. Cuối cuộc họp nói trên 
tại Hải Phòng, các đại biểu và giáo sư Hoa Kỳ đã đến gặp tôi và rất xúc động nói 
cho đến nay mới được biết Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức thư này cho Hoa Kỳ và 
rất lấy làm tiếc là đã không có trả lời. Đây là bức thư về giáo dục. Và nếu cùng 
với bảy bức thư khác Bác gửi cho các Tổng thống Hoa Kỳ về nhiều vấn đề khác nhau 
mà được trả lời thiện chí thì tình hình quan hệ hai nước và quốc tế đã khác. 
Những lần sau, ngay từ đầu 
những năm năm mươi và sáu mươi của thế kỷ trước, khi cuộc kháng chiến chống thực 
dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt, Bác và Nhà 
nước ta đã rất thành công khi gửi một số lượng lớn lưu học sinh Việt Nam đi du 
học ở Trung Quốc, Liên Xô (cũ) và các nước XHCN ở Đông Âu, CHDCND Triều Tiên, Cu 
Ba,... Như vậy, chính vào những thời điểm cam go nhất của vận mệnh dân tộc kể từ 
năm 1945, Bác luôn luôn chủ trương gửi lưu học sinh Việt Nam đi du học nước 
ngoài để chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai. Như vậy ngay từ đầu, trong tư 
duy và hành động, Hồ Chí Minh luôn coi khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo 
và hội nhập quốc tế là quốc sách hàng đầu. 
Bác Hồ là một tấm gương tự học, 
học suốt đời:  
Báo cáo của Hội đồng Delors lên UNESCO năm 1996, ngoài 
việc khuyến nghị  bốn trụ cột giáo dục của toàn thế giới trong thế kỷ XXI, 
còn đề cập đến khái niệm “Học suốt đời”. Có thể nói cuộc đời và hoạt động của 
nhà giáo Nguyễn Tất Thành chính là một ví dụ sinh động minh hoạ khái niệm học 
suốt đời, học mở, một cuốn sách mở, suốt đời ủng hộ và cổ súy cho việc học tập, 
chính quy và phi chính quy và thực sự luôn xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. 
Cách học là phi chính quy, vì không có điều kiện học chính quy, và không vị bằng 
cấp, nhưng kiến thức và bài học thực tiễn thu được là rất chính quy và cơ bản. 
Ngược lại, ngày nay vẫn còn có người chưa thực sự xem giáo dục là quốc sách hàng 
đầu, có người được đi học theo hình thức chính quy, nhưng kiến thức thu nhận 
được lại phi chính quy.   
Chỉ xin lấy vốn ngoại ngữ của Người làm ví dụ 
minh hoạ cho khả năng tự học của Người. Chúng ta đã biết Bác Hồ thành thạo những 
thứ tiếng quốc tế như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng 
Trung Quốc,... và dùng được cả tiếng Thái, tiếng các dân tộc ít người, vì Bác đã 
ở, làm việc, hoạt động cách mạng và tìm hiểu những tư tưởng tiến bộ của thời đại 
ở các nước, các địa phương nói thứ tiếng đó. Việc Bác biết cả tiếng Đức và để 
lại bút tích chuẩn mực bằng tiếng Đức ở Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh khiến tôi ngạc 
nhiên vô cùng. Bác có thể đọc các tác phẩm kinh điển của Marx, Engels và Lenin 
bằng tiếng Pháp, Anh và Nga. Nhưng Người học thêm cả tiếng Đức có lẽ để đọc Tư 
bản luận (Kapital) của Marx trong nguyên tác bằng tiếng Đức? Đây là một đức tính 
mà các nhà khoa học hậu thế cần noi theo gương của Người để tìm hiểu trên nguyên 
tác của các công trình khoa học, chứ không chỉ thông qua bản dịch. 
Một ví dụ khác nữa về khả năng ngoại ngữ đặc biệt 
của Bác. Năm 1924, khi hoạt động tại Quảng Châu, Trung Quốc, để chuẩn bị lực 
lượng cho cách mạng Việt Nam, Bác, lúc đó lấy tên là Lý Thụy, đóng vai trò là 
phiên dịch cho M. M. Borodin, Trưởng đoàn cố vấn của Chính phủ Liên Xô bên cạnh 
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tôn Trung Sơn, tức là phiên dịch giữa tiếng 
Trung Quốc và tiếng Nga, cả hai đều không phải là tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ! 
▪ Tham khảo những kinh nghiệm quốc 
gia và quốc tế để làm giáo dục:  
Trong thời đại hội nhập quốc tế và thế giới phẳng ngày nay, chúng 
tôi cho rằng việc tham khảo có chọn lọc những kinh nghiệm giáo dục của các nước 
và chú ý đến những khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, trước hết là các cơ quan 
của Liên Hiệp Quốc như UNESCO, UNICEF,..., sẽ giúp chúng ta giảm bớt khó khăn, 
bớt mày mò và đi đúng hướng văn minh của thời đại. Và cũng chỉ khi đó, nguồn 
nhân lực do chúng ta tạo ra mới đủ trình độ và sức mạnh để hợp tác và cạnh tranh 
bình đẳng trên toàn cầu. 
 
Chúng ta đã 
và đang cố gắng học hỏi được nhiều nhất những cái hay của thiên hạ và quan trọng 
hơn nữa là học hỏi ngay chính những cái tốt trong lịch sử giáo dục nước nhà, một 
quốc gia có nền văn hiến mấy nghìn năm, sẽ giúp chúng ta bớt ”loay hoay”. Mà có 
ai, có nước nào trên thế giới này ngăn cấm chúng ta học hỏi và tham khảo kinh 
nghiệm tốt của họ đâu. Chúng ta học hỏi và tham khảo có chọn lọc chứ không phải 
sao chép (copy). Vả lại làm gì có một loại ”thức ăn sẵn” nào trong giáo dục. 
Nhưng cũng không có nghĩa là ta phải loay hoay từ đầu trong hoàn cảnh của ta, 
cho riêng ta. Từ tư duy đến hành động, từ triết lý đến triển khai giáo dục, cần 
thiết và có thể vận dụng triệt để các bài học quốc tế và lịch sử có giá trị và 
phù hợp với mình.  
Luật sư Nguyễn Trần Bạt viết: ”Nước nào có nền giáo dục tốt 
thì chúng ta bắt chước, bắt chước chương trình, bắt chước triết lý của người ta” 
(Đối thoại với tương lai, trang 671). 
Chỉ như vậy chúng ta mới có thể hy vọng tiến nhanh hơn (so với chính mình ở giai 
đoạn trước) và giảm bớt dần khoảng cách so với khu vực và thế giới phát triển. Ở 
đây chúng tôi chưa dám nói là chúng ta sẽ ”đi tắt, đón đầu” các nước có nền giáo 
dục tiên tiến. Cố bám sát họ nhất có thể được đã là khó khăn, thách thức và vinh 
dự. Vì khi ta cố ”tiến lên” thì họ đâu có dừng mà còn ”tiến lên” với tốc độ lớn 
hơn. Nói theo ngôn ngữ vật lý thì không chỉ tốc độ mà gia tốc của các nước tiên 
tiến đều lớn hơn ta. 
Chương trình 
và sách giáo khoa:  
Chúng tôi 
muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm 
quốc tế trong giáo dục và nói riêng là trong việc xây dựng chương trình, sách 
giáo khoa. Điều đáng mừng là ngay từ những ngày đầu tiên của nền giáo dục cách 
mạng, chúng ta đã chú ý đến điều này. Nhiều kinh nghiệm giáo dục của Liên Xô 
(cũ), Pháp, Trung Quốc và các nước XHCN khác đã được chúng ta tiếp thu có chọn 
lọc. Tôi nhớ ngày còn đi học, các cuốn sách giáo khoa phổ thông mỏng dính, kiến 
thức rất chắt lọc, nhưng về cơ bản vẫn ”đủ chất” cho học sinh, kể cả “chất để 
làm người”, dù học tiếp lên đại học ở trong hoặc ngoài nước, học cao đẳng hay đi 
học nghề hoặc đi làm. Được vậy là nhờ chúng ta đã tham khảo cách làm giáo dục, 
tham khảo các sách giáo khoa chuẩn mực và rất cơ bản của Nga, Pháp, Mỹ và các 
nước khác. Nói riêng trong môn toán, các cuốn sách giáo khoa cấp II và III ngày 
ấy do thầy Lê Hải Châu và thầy GS. Hoàng Tụy biên soạn vừa ngắn gọn, súc tích 
vừa cơ bản.   
Hiện nay khi 
biên soạn lại và hiện đại hoá sách giáo khoa chúng ta đã chú ý hơn nữa đến việc 
học hỏi những kinh nghiệm quốc tế. Đó là cách làm rất khoa học, tiết kiệm và hội 
nhập trong thời đại ”thế giới phẳng” ngày nay. Nhưng chúng tôi cho rằng cần phải 
mạnh dạn hơn nữa trong việc tham khảo có chọn lọc và sử dụng nguồn thông tin, 
sách giáo khoa trên thế giới, đặc biệt là đối với các môn khoa học tự nhiên, kỹ 
thuật, công nghệ, không chỉ ở bậc phổ thông mà ngay cả ở bậc đại học và sau đại 
học. Ngay cả đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn, chất liệu về cơ bản 
đương nhiên là của chúng ta, nhưng vẫn cần xem họ thiết kế chương trình và dạy 
ra sao, để học sinh chúng ta luôn tiếp cận được những tư tưởng tiến bộ nhất 
trong văn hoá, nghệ thuật, hiểu được và hướng tới những giá trị nhân văn cao cả 
của thời đại ngày nay. Tóm lại là phải thấm nhuần sâu sắc phương châm ”cơ bản, 
hiện đại, Việt Nam” của Đảng ta trong giáo dục phổ thông và cả đại học. ”Trông 
Bắc trông Nam, trông cả địa cầu”, ngẫm lại cả chiều dài lịch sử và hướng tới 
tương lai (cho đủ cả bốn chiều!) để học hỏi, để xây dựng con người Việt Nam mới, 
đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng cũng phải đủ bản lĩnh để hội nhập và phát triển 
trong thế giới phẳng ngày nay, với đầy cam go, thử thách và cạnh tranh khốc liệt 
xảy ra trong khu vực và trên thế giới, liên quan tới phát triển bền vững, tới an 
ninh và chủ quyền Tổ quốc. 
Bài học từ giáo dục Nhật 
Bản:  
Chúng ta đã chứng kiến 
câu chuyện thần kỳ về việc vua Minh Trị (1852-1912) đã canh tân đưa Nhật Bản 
phát triển lên thành một quốc gia hiện đại, thoát khỏi nguy cơ trở thành một 
nước thuộc địa. Nhật Bản cũng tự xác định, nước mình không được ưu ái gì về tài 
nguyên thiên nhiên, ngược lại còn bị động đất liên miên, nên ngay từ đầu họ đã 
chú ý xây dựng và khai thác nguồn tài nguyên con người. 
Tinh thần thời mở cửa 
của vua 
Minh 
Trị 
được thể hiện cụ thể trong công thức “Tinh 
thần, đạo đức phương Đông và khoa học phương Tây” (“Eastern ethics and Western 
science”) do nhà công nghệ nổi tiếng Sakuma Sho-zan (1811-1864) đề xuất. Vua 
Minh Trị, một mặt mời các nước tư bản phương Tây vào làm ăn buôn bán, mặt khác 
cử hơn 200 thanh niên, sinh viên, chuyên gia trên một chuyến tàu đi tham quan 
học tập một năm rưỡi vòng quanh thế giới, qua Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nga,... Đến 
nước nào Đoàn cũng để lại người tiếp tục học tập và nghiên cứu, quá nửa là ở Mỹ. 
Ngay từ ngày ấy nước Nhật đã có sự lựa chọn rất chiến lược và cụ thể cần học cái 
gì, ở đâu. Sau Minh Trị duy tân, Nhật Bản đã học hỏi khoa học y tế và quân sự từ 
nước Đức, hải quân thì phần lớn học từ nước Anh và mỹ thuật, luật dân sự từ nước 
Pháp. Sau chiến tranh Thế giới thứ II, họ tiếp tục học được  nhiều kỹ thuật 
quan trọng từ công nghiệp sản xuất xe hơi của Mỹ, khoa học hạt nhân của Pháp, 
công nghiệp sản xuất máy móc và dược phẩm của Đức.
  
Bài học từ 
giáo dục Trung Quốc:  
Theo đánh 
giá của Trung Quốc và các nước, các tổ chức quốc tế, sở dĩ kinh tế Trung Quốc 
tăng trưởng liên tục hơn 10% trong suốt 30 năm qua, một nguyên nhân cơ bản là 
nguồn nhân lực của nước này có chất lượng cao. Để đạt được điều này, Trung Quốc 
đã hiện đại hoá, quốc tế hoá nền giáo dục nước mình trong việc thiết kế chương 
trình, sách giáo khoa, kiểm tra, đánh giá theo chuẩn mực quốc tế, đào tạo giáo 
viên và xây dựng cơ sở vật chất. Trung Quốc chủ trương dùng tối đa các chương 
trình, sách giáo khoa hiện đại quốc tế và giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh các 
môn khoa học, công nghệ, tăng cường mời giáo sư, chuyên gia, hiệu trưởng, viện 
trưởng là Hoa kiều hoặc người nước ngoài. 
 
Từ năm 1978, 
sau chuyến thăm Mỹ về, Đặng Tiểu Bình đã bắt đầu nhiều cải cách quan trọng trong 
phát triển kinh tế, trong đối nội đối ngoại, nói riêng là trong khoa học và giáo 
dục của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình đã chỉ đạo: Muốn Trung Quốc phát triển và hội 
nhập quốc tế nhanh chóng thì nền giáo dục Trung Quốc phải được quốc tế hóa trước 
một bước, thanh niên, học sinh, sinh viên phải tăng cường học tiếng Anh, phải 
lập các trung tâm học và thi TOEFL, IELTS tại các thành phố, phải tăng cường hợp 
tác quốc tế về giáo dục và gửi học sinh, sinh viên đi du học nước ngoài, theo 
phương châm 12 chữ vàng “chi trì lưu học, cổ lệ hồi quốc, lai khứ tự do” 
(“khuyến khích du học, động viên về nước, đi về tự do”). Chính vì vậy, đã hơn 30 
năm trôi qua kể từ ngày đó, nền giáo dục Trung Quốc đã tạo ra nguồn nhân lực vừa 
có quy mô lớn vừa có chất lượng cao, đủ sức lan toả và cạnh tranh trên toàn thế 
giới. Trung Quốc đã cử được gần một triệu lưu học sinh, kể cả tự túc, đi học ở 
trên 100 nước và vùng lãnh thổ, mà quá nửa là đi Mỹ. Một phần ba trong số này đã 
trở về nước trực tiếp góp phần xây dựng và phát triển Trung Hoa hiện đại, 2/3 
còn lại là cầu nối và cộng tác viên quan trọng giúp Trung Quốc hợp tác, làm ăn 
với cả thế giới. “Về nước là yêu nước, chưa về ngay hoặc ở lại nước ngoài cũng 
là yêu nước”. Đó là quan điểm và chiến lược toàn cầu của Trung Quốc. Nước này 
phấn đấu đến năm 2049 (100 năm nước CHND Trung Hoa) sẽ có người Trung Quốc ở 
trong nước được nhận giải Nobel, mặc dù cho đến nay đã có không ít Hoa kiều được 
nhận giải Nobel, Fields và các giải thưởng cao quý khác. 
Bài học từ giáo dục nước Anh:  
Chúng tôi suy nghĩ và 
bước đầu  
thấy rằng nền giáo dục Anh quốc  
có 
những nét đặc trưng  
khác các nền giáo dục khác và khi nói chuyện, 
người Anh rất tự hào về điều này. Đó là: Giáo viên và sách giáo khoa nước Anh 
trước hết chú ý rèn cho học sinh, sinh viên của họ học để sáng tạo chứ không học 
để thuộc lòng, học chỉ để có kiến thức. Có lẽ họ là những điển hình trung thành 
với nguyên tắc: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn cả kiến thức” (“Imagination is 
more important than knowledge”) của nhà bác học vĩ đại nhất mọi thời đại Albert 
Einstein, hoặc quan điểm của William A. Warrd: "Người thầy trung bình chỉ biết 
nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh họa, người 
thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng."
 
Các nhà giáo 
dục Anh quốc thường ”chê” nhà trường ở một số nước khác, vì dạy học sinh học 
thuộc lòng quá nhiều, vì ”cứng nhắc” và ”bảo thủ”. Sau khi tìm hiểu thêm tôi 
thấy sự tự tin đáng yêu đó của các học giả người Anh cũng có những cơ sở nhất 
định. Theo kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến đáng tin cậy trên toàn thế giới, 
trong số 10 phát minh khoa học vĩ đại nhất của loài người từ xưa đến nay thì 4 
do người Anh nắm giữ. Trong số 10 đại học đứng hàng đầu thế giới thì thường Mỹ 
chiếm 7, Anh 2 và Pháp 1 (École Polytechnique, thành lập năm 1794) và bốn đại 
học hàng đầu thế giới là Harvard (Mỹ, thành lập năm 1636), MIT (Mỹ, 1861), 
Oxford (Anh, 1096) và Cambridge (Anh, 1209). Nhưng sẽ rất thú vị khi phân tích 
kĩ lịch sử hình thành của chúng: Harvard là “con đẻ” của Oxford và Cambridge! 
Nói rộng ra, nền giáo dục và đại học nước Anh đã góp phần tạo ra và tiếp tục có 
ảnh hưởng to lớn trong vòng hai thế kỷ vừa qua đến các nước ở Bắc Mỹ, Úc, Nam Á, 
nam ASEAN, Hongkong và các nước khác thuộc khối Liên hiệp Vương Quốc Anh. Có thể 
chăng, đây cũng là một trong các lý do làm cho tiếng Anh ngày càng trở nên phổ 
dụng trên toàn thế giới? Theo thống kê mấy năm trước đây của Hội đồng Anh (BC): 
Có 370 triệu người bản ngữ nói tiếng Anh và 375 triệu người sử dụng tiếng Anh 
như một ngoại ngữ. Như vậy có 745 triệu người nói tiếng Anh. Con số này chắc 
tăng nhanh lên hàng ngày. Đó là chưa kể đến hàng tỷ máy tính trên khắp thế giới 
này lại chỉ được con người ”dạy” để ”nói” tiếng Anh. Vì thế người ta nói: Tiếng 
Anh có nhiều nước nói nhất, còn tiếng Trung Quốc có nhiều người nói nhất. 
Bài học từ 
giáo dục Singapore và Malaysia:  
Chúng tôi 
xin nêu vài ví dụ để so sánh. Năm 1965, Singapore tách ra thành một đảo quốc độc 
lập từ Malaysia và Ông Lý Quang Diệu (NS: 1923), cựu sinh viên luật của ĐH 
Cambridge, nước Anh, là Thủ tướng trong suốt 31 năm, từ 1959 cho đến 1990. Với 
diện tích 697,25 km2, chỉ xấp xỉ bằng huyện Cần Giờ, TP. HCM, và dân 
số 5,1 triệu người (năm 2010), Singapore xuất phát từ một làng chài nghèo, đến 
nước uống cũng không có, phải mua của Malaysia. Vì thế Thủ tướng Lý Quang Diệu 
ngay từ đầu đã xác định rằng nước mình không có một nguồn tài nguyên nào hết, 
tất cả phải nhờ cái đầu, đi lên bằng cái đầu, bằng nguồn nhân lực và tài năng. 
Singapore có ba nhóm người chính là Hoa, Ấn Độ và Mã Lai. Cả ba vẫn duy trì 
tiếng nói, văn hoá và bản sắc của mình, nhưng ngôn ngữ chính thức được sử dụng 
chung trong hành chính và giáo dục là tiếng Anh. Hiện nay 20% số sinh viên trên 
đất Singapore là người nước ngoài, có thể bằng học bổng của Singapore, nhưng sau 
khi tốt nghiệp đại học, có bằng thạc sĩ hoặc tiến sĩ thì ở lại làm việc tại 
Singapore để trả nợ. Một số trường phổ thông chất lượng cao và đại học có uy tín 
quốc tế của Singapore đã trực tiếp sang Việt Nam hoặc qua internet, tổ chức hội 
thảo du học, trại hè,... để tìm học sinh, sinh viên và NCS tài năng thu hút về 
học tập và nghiên cứu ở nước họ. Như vậy, họ không chỉ biết khai thác trí tuệ 
của 4-5 triệu người của mình mà cả hàng triệu người nước ngoài, nhất là người có 
tài. Sự khôn ngoan của họ lại làm tôi nhớ đến câu thơ rất hay của Cao Bá Quát 
“kho trời chung, mà vô tận của mình riêng”. Trong một số lần sang thăm và trả 
lời phỏng vấn tại Việt Nam, Ông Lý Quang Diệu cho rằng đó là lợi thế của nước 
mình trong hội nhập quốc tế và còn khuyên thế hệ trẻ nước ta ngày nay phải nhanh 
chóng thành thạo tiếng Anh thì mới làm ăn và cạnh tranh được trên thế giới. 
Trong suốt 
20 năm đầu khi mới thành lập nhà nước Singapore, Ông Lý Quang Diệu chỉ đạo Bộ 
Giáo dục nước này dùng luôn sách giáo khoa phổ thông của nước Anh cho trường học 
của mình, nhất là đối với các môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Đây 
có lẽ là một trong số các cách nhanh nhất, khoa học nhất, tiết kiệm nhất để cập 
nhật, hiện đại hoá nền giáo dục và nói riêng là biên soạn sách giáo khoa, bảo 
đảm các nguyên tắc của khoa học sư phạm hiện đại, vì các nước phát triển lâu đời 
như nước Anh đã có truyền thống với nhiều chuyên gia khoa học và giáo dục rất 
giỏi. Đương nhiên khi viết sách giáo khoa, các tác giả người Anh đã kết hợp tài 
tình những kinh nghiệm truyền thống của họ được cả thế giới khâm phục với những 
bài học quốc tế đắt giá. 
Trong khi đó 
Malaysia, nước láng giềng bên cạnh, thì lại chủ trương dùng tiếng Malay là chủ 
yếu. Kết quả là rất nhiều học sinh, sinh viên nước này bỏ ra học nước ngoài, 
trong đó có nhiều thanh thiếu niên, con nhà giàu, khiến mỗi năm bị chảy máu 
ngoại tệ nhiều tỷ Đô la Mỹ và chất lượng đại học đi xuống. Cách đây ít năm, sau 
22 năm làm Thủ tướng, ông Mahathir Mohamad đã rút ra bài học kinh nghiệm đắt giá 
về giáo dục và yêu cầu mọi người Mã Lai hãy trở lại với tiếng Anh và cá nhân Ông 
gương mẫu học trước. Nói vậy thôi, nhưng có lần vào khoảng đầu những năm 2000, 
khi tham dự Hội nghị thường niên của các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN (SEAMEC) được 
tổ chức tại Kinabalu (Malaysia), tôi nghe Ông phát biểu trơn tru bằng tiếng Anh 
thứ thiệt trong suốt một giờ đồng hồ mà không cần cầm giấy tờ, trợ lý, phiên 
dịch gì cả. 
Tài liệu tham khảo 
Khi chuẩn bị tham luận này chúng tôi đã tham khảo Nghị quyết Đại hội Đảng CSVN 
lần thứ IX, XI và các bài viết của các tác giả Nguyễn Thị Bình, Hoàng Tụy, Trần 
Hồng Quân, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Thiện Nhân, Phạm Vũ Luận, Nguyễn Trần Bạt, Văn 
Như Cương, Nguyễn Minh Thuyết, Mai Trọng Nhuận, J. Knight, Hans De Wit, Zha 
Qiang, ... 
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2012 
Trần Văn 
Nhung  
tvnhung@moet.edu.vn 
  
			 |