NHỚ ANH NGUYỄN HỮU CÔNG
|
|
Phạm Kỳ Anh Khoa Toán - Cơ - Tin học “Chẳng có gì cao quý trong việc vượt lên trên người khác, sự cao quý thực sự là vượt lên chính con người cũ của ta.”
Ernest Hemingway |
Mùa
thu năm 1973, Bộ môn Phương pháp tính được bổ sung hai cán bộ
trẻ vừa tốt nghiệp Khoa Toán-Cơ của Trường
ĐHTH Minsk, Belorussia về,
đó là các anh Nguyễn Hữu Công và Trần
Hữu Phúc. Lúc này ở Khoa Toán-Cơ, phong trào thực hiện
chỉ thị 222-TTG, đưa Toán học vào phục vụ chiến
đấu và sản xuất lên rất cao. Sinh viên năm cuối và
cán bộ trẻ Bộ môn Phương pháp tính được các cán bộ
lâu năm, như thầy Nguyễn Công Thúy, thầy Nguyễn Quý Hỷ,
v.v… dẫn đi thực tập tại một số nhà máy, viện
nghiên cứu, vv... thầy Hỷ lúc đó vừa bảo vệ luận
án PTS ở Ba Lan về nước, đang rất say sưa với
lý thuyết đổi mới (renewal theory), đã soạn
hẳn một bài thuyết trình công phu về lý
thuyết này. Tôi nhớ mãi hình ảnh anh Công điển
trai, da ngăm ngăm, để hàng ria con kiến, áo sơ mi trắng bỏ
trong quần sáng màu, trông như hoàng tử Ả Rập, đi “tháp
tùng” thầy Hỷ tại những buổi tuyên truyền về
lý thuyết đổi mới. Anh Công nhập tâm bài diễn
thuyết đến mức, sau lần đi thực tế ở
Tổng cục Đường sắt về, đã “phê
bình” thầy Hỷ: “Hôm nay anh nói thiếu phần về
bò giống Cu Ba”…
Trong
năm học 1978-1979, anh Công được phân công làm
Đại đội
trưởng
Đại đội tự vệ của Khoa tham gia xây
dựng phòng tuyến sông Cầu. Các chiến sĩ
tự vệ của Khoa đã đóng góp hàng ngàn công cho
phòng tuyến bảo vệ Thủ đô trong chiến
tranh biên giới phía
Bắc.
Vào
những năm đầu của thập kỷ 80 của thế
kỷ XX, đất nước gặp muôn vàn khó khăn về kinh tế.
Mọi nhu yếu phẩm đều được phân phối theo
tem phiếu. Trong một lần mua gạo ở cửa hàng
lương thực phố Lò Đúc, anh Công đã bị kẻ
gian lấy cắp cả gạo, lẫn sổ mua gạo,
thật là họa vô đơn chí!. Chỉ những ai sống trong
thời kỳ bao cấp lúc bấy giờ mới thấm
thía câu nói “… trông như vừa mất sổ gạo…”
Lúc
đó ở Hà Nội có cuộc “chiến tranh” điện, nước.
Điện áp thành phố rất yếu, nước thì chảy
nhỏ giọt. Mọi người đua nhau sắm súp von tơ (survoltage)
để nâng điện áp nhà mình lên, và như vậy thì
làm cho điện nhà hàng xóm tắt ngóm. Chính trong giai đoạn khó
khăn này, anh Công đã học được một nghề khá
“hot” là quấn súp von tơ. Ngoài ra, cùng với một số giáo
viên trong Khoa, anh cũng tham gia sản xuất sơn, nước
đá, phích xốp, v.v… để cải
thiện đời sống.
Từ
năm 1982 đến 1984, anh Công được cử đi chuyên gia Algeria. Chủ
trương của nhà nước cử cán bộ
Giáo dục,
Y tế,
Nông nghiệp, v.v… đi chuyên gia Châu Phi để “cứu nước,
cứu nhà” đã giúp cho nhiều nhà khoa học dành dụm
được một khoản tiền, sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ với
Nhà nước và đóng góp cho cơ quan chủ
quản. Sau chuyến đi này, anh Công đã có tiền sửa
lại căn hộ ở Lò Đúc, mua tivi, xe máy. Anh là người
sở hữu chiếc xe máy DD đỏ thứ 2 trong Khoa, sau
chiếc xe của anh Trần Văn Nhung vừa đi học bổng
Humboldt về. Anh Công cũng là một trong số rất ít
giáo viên trong khu tập thể Lò Đúc hồi đó có tivi màu…
Từ
năm 1990 đến năm 1994, anh Công may mắn được làm NCS ở
Trường ĐHTH Amsterdam, Hà Lan trong khuôn khổ đề tài hợp
tác Việt Nam-Hà Lan VH25. Tập thể hướng dẫn của
anh Công gồm giáo sư P.J. Vander Houwen, chuyên gia về giải số
phương trình vi phân và tiến sĩ B.P. Sommeijer, chuyên gia về
lập trình. Khoa Toán-Tin, Trường ĐHTH Amsterdam, Hà Lan, do
Giáo sư Eduardus M. de Jager làm Trưởng Khoa, là đối tác của
Khoa Toán-Cơ, Trường ĐHTH Hà Nội. GS Hoàng Hữu Như và Giáo sư
J. Th. Ruinenberg là hai đồng chủ trì đề tài VH25. Sau
này, chính GS Ruinenberg đã hướng dẫn thành công NCS Tăng Đặc
Công, được Khoa cử đi học theo thỏa thuận của
đề tài này. Hai anh Công, một già, một trẻ đều bảo
vệ xuất sắc luận án TS tại Trường ĐHTH
Amsterdam.
Những
năm tháng học tập ở Hà Lan là quãng thời gian phấn
đấu không mệt mỏi của anh Công. Mỗi sáng, anh dạy
rất sớm nấu ăn rồi chuẩn bị bữa trưa
mang đến Viện nghiên cứu Toán học và Tin học của
Hà Lan CWI (Centrum Wiskunde & Informatica). Tầm
mười,
mười giờ rưỡi
anh mới về nhà nấu ăn và tiếp tục làm việc cho
đến khuya. Mùa hè anh thường đạp xe, còn mùa đông lạnh
lẽo, anh chọn đi xe bus đến Viện. Từ căn hộ
thuộc khu Dallwijk, Amsterdam được nhà trường thuê cho NCS nước
ngoài ở, anh phải đi bộ khoảng
hai km qua một đoạn
đường vắng mới đến được bến xe.
Từ
chỗ không được đào tạo bài bản về tiếng
Anh, toán học tính toán, ngôn ngữ lập trình Fortran,
máy tính song song, v.v…, với trí thông minh thiên bẩm lại được
làm việc trong môi trường học thuật rất thuận
lợi ở CWI, anh Công đã nhanh chóng nắm bắt được
nhiều kỹ thuật trong lĩnh vực giải số
bài toán Cauchy cho phương trình vi phân thường, đặc biệt
là giải số trên máy tính song song.
Tháng
3 năm 1994, sau tổng cộng
hai năm học tập ở Hà Lan
và
hai năm làm việc trong nước, anh Công đã xuất sắc
bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề
tài “Parallel Runge-Kutta-Nystrom methods” (Các phương pháp Runge-Kutta-Nystrom
song song) với 6 bài ISI,
dược công bố trong những tạp chí tốt nhất về Toán học tính toán và toán học ứng
dụng:
1.
P.J. van der Houwen, B.P. Sommeijer, N. H.
Cong, Stability of collocation-based Runge-Kutta-Nystrom methods, BIT 31(1991) 469-481.
2.
P.J. van der Houwen, B.P. Sommeijer, N. H.
Cong, Parallel diagonally implicit Runge-Kutta-Nystrom methods, Appl. Numer. Math., 9(1992) 263-281.
3.
N.H. Cong, A-stable diagonally implicit
Runge-Kutta-Nystrom methods for parallel computers, Numer. Algor., 4(1993) 263-281.
4.
N.H. Cong, Note on the performance of
direct and indirect Runge-Kutta-Nystrom methods, J. Comput. Appl. Math., 45(1993), 347-355.
5.
P.J. van der Houwen, N. H. Cong, Parallel
block predictor-corrector methods of Runge-Kutta type, Appl. Numer. Math., 13(1993) 109-123.
6.
N.H. Cong, Parallel iteration of symmetric
Runge-Kutta methods for nonstiff initial value problems, J. Comput. Appl. Math., 51(1994) 117-125.
Thực ra, đến thời điểm đó, anh Công chỉ đưa
một phần ba kết quả thu được vào luận án tiến
sĩ, phần còn lại anh để dành cho luận án
TSKH được bảo vệ tại Hà Nội chừng một
năm sau đó.
Ngày 20 tháng 2 năm 1995, tại 19 Lê Thánh Tông, anh Nguyễn Hữu Công đã bảo
vệ thành công luận án TSKH “Các phương pháp song song dạng
Runge-Kutta-Nystrom” với 17 bài công bố trên các tạp chí quốc
gia và quốc tế.
Năm 1994, ngoài tấm bằng tiến sĩ, anh Công về
nước còn mang theo máy tính Macintosh, máy in kim, và phần mềm
soạn thảo toán học với công thức đẹp không
kém gì phần mềm LATEX. Đó là niềm mơ ước của
những người làm toán chúng tôi, bởi vì hồi đó
trong nước đang thịnh hành phần mềm soạn thảo
BKED của anh Quách Tuấn Ngọc. Tuy nhiên các ký hiệu
toán học, như dấu tích phân, dấu tổng, v.v… soạn
thảo bằng BKED đều không đẹp. Sau này khi TEX và LATEX
phổ biến thì BKED không còn được sử dụng
nữa.
Anh Công được phong học hàm PGS năm 1996 và GS năm 2002. Từ
năm 1999, anh làm Phó Chủ nhiệm Khoa Toán-Cơ-Tin học, phụ
trách mảng đào tạo sau đại học và nghiên cứu khoa
học của Khoa, đồng thời làm Chủ nhiệm Bộ
môn Toán học tính toán và Toán ứng dụng. Năm 2001, cùng với
các thầy giáo trong Khoa, như Phạm Kỳ Anh, Nguyễn Hữu
Dư, Nguyễn Văn Minh, Vũ Hoàng Linh… và các nhà khoa học ngoài
trường như Đinh Dũng, Nguyễn Đình Công, Nguyễn
Khoa Sơn, v.v.., anh đã tham gia tổ chức thành công hội
nghị quốc tế đầu tiên của Khoa: Hội
nghị quốc tế về phương trình vi phân, lý
thuyết xấp xỉ và ứng dụng và Trường quốc
tế CIMPA-UNESCO-HANOI về hệ khả tích và điều khiển.
Anh đã hướng dẫn thành công bốn NCS, gồm chị
Nguyễn Thị Hồng Minh (2001), anh Lê Ngọc Xuân (2007), anh
Nguyễn Văn Minh (2007) và chị Nguyễn Thu Thủy (2015).
Riêng NCS La Trí Dũng đã có hai bài viết chung với thầy
Công và đang gấp rút hoàn thành luận án.
Từ năm
2002 đến năm 2009, anh Công giữ chức
vụ Trưởng Khoa Sau Đại học, ĐHQGHN. Trên cương vị
mới, anh vẫn luôn quan tâm tư vấn, giúp đỡ Khoa
Toán-Cơ-Tin học trong việc đào tạo cao học và nghiên cứu
sinh. Từ năm 2010 đến khi mất, GS Nguyễn Hữu Công đảm nhận chức vụ Chủ tịch Hội đồng khoa học liên
ngành Toán-Cơ-Tin học
và Chủ tịch Hội đồng Khoa học-Đào
tạo Khoa Sau đại
học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lúc này, công việc quản lý không còn
bận rộn như trước, anh Công đã thu xếp thời
gian tham dự seminar của Bộ môn Toán học tính toán vào các
chiều thứ tư hàng tuần. Seminar bắt đầu từ
2 giờ, nhưng cứ đến tầm 4 giờ, là anh đứng
dậy ra về để “tránh tắc đường”.
Cố giáo sư, nhà giáo ưu tú Nguyễn Hữu
Công (1949-2014) là một nhà Toán học tài năng với
48 công trình được thống kê
trong MathSciNet, trong đó có 31 bài trên các tạp chí trong danh mục
ISI, như: J. Comput. Appl. Math. , Appl.
Num. Math., Comput. Math. Appl., Adv. Comput. Math., BIT, v.v…
Nhiều công trình của anh được trích
dẫn hơn 10 lần từ các bài đăng trên tạp chí trong danh
mục ISI. Điển hình là bài viết chung với các
giáo sư P.J. Vander Houwen, B.P. Sommeijer trong BIT năm 1991 được trích dẫn 51 lần; bài viết
chung với GS P.J. Vander Houwen trong Appl. Numer. Math. năm 1993 được trích dẫn 19 lần; bài trong J. Comput. Appl. Math. năm 1993 được
trích dẫn 16 lần, v.v…
Tôi vẫn tự hỏi, làm thế nào để một người đã ngoài 40 tuổi mới bắt đầu làm Toán như anh Công mà lại thành công đến như vậy?!. Phải chăng đó là nhờ trí thông minh thiên bẩm và tinh thần cần cù làm việc của anh, hay nhờ tập thể hướng dẫn, giáo sư P.J. Vander Houwe và tiến sĩ B.P. Sommeijer đang triển khai một đề tài nghiên cứu lý thú và đưa ra những cách tiếp cận mới có thể giải quyết một loạt bài toán có tính ứng dụng cao?, nhờ môi trường khoa học ở viện CWI hết sức thuận lợi?. Và đặc biệt, có lẽ là nhờ anh có một hậu phương rất vững chắc. Vợ anh, chị Nguyễn Thị Hạnh, nguyên Phó Giám đốc NXB Văn học, rất tháo vát, đảm đang, các cháu Anh Cường và Hạnh Dung đã luôn giữ được ngọn lửa nhỏ ấm áp trong gia đình. Có lẽ tất cả những điều đó cộng với sự nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân đã giúp anh vượt qua được những khó khăn của cuộc sống, những chông gai trên con đường sáng tạo, và thực sự anh đã vượt lên trên chính mình.
Viết đến đây, tôi như thấy anh, với dáng người đậm, giọng nói sang sảng của người dân vùng biển Xuân Hải và tiếng cười sảng khoái cùng tinh thần lạc quan yêu đời.
Nhân
dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Khoa, cũng là dịp
2 năm ngày mất của anh, tôi viết mấy dòng để
tưởng nhớ tới anh, GS TSKH, NGƯT Nguyễn Hữu Công,
nhà toán học xuất sắc, người thầy mẫu mực
và người đồng nghiệp thân thiết của Khoa, người
đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Bộ
môn Toán học tính toán và Khoa Toán-Cơ-Tin học.