KHOA TOÁN – CƠ – TIN HỌC:

60 NĂM XÂY DỰNG, TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

         

          T́nh h́nh đào tạo cán bộ cao đẳng đại học trong Kháng chiến chống Pháp

            Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chế độ dân chủ cộng ḥa được thành lập. Cùng với sự thay đổi to lớn về mọi mặt của đất nước và của dân tộc, nền giáo dục Việt Nam trong đó có giáo dục đại học và cao đẳng cũng thực hiện bước ngoặt vĩ đại theo phương châm: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng.

            Trong những năm Kháng chiến chống Pháp, một số trường đại học và cao đẳng đă được thành lập: Đại học Văn Khoa ở Thanh Hóa và Nghệ An, một số lớp Toán học đại cương ở Nghệ An và Việt Bắc. Đến năm 1952 trường Dự bị Đại học ra đời ở Thanh Hóa gồm hai ban Khoa học Tự nhiên và Khoa học Xă hội. Từ năm 1951 tại khu học xá Trung ương đặt nhờ tại Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc) cũng mở trường Khoa học Cơ bản (Khoa học Tự nhiên), trường Ngoại ngữ Trung văn, trường Sư phạm Trung và Cao cấp. Tiếng Việt được dùng làm chuyên ngữ trong giảng dạy và học tập cho mọi trường.

            Từ năm học 1950-1951, ở vùng tự do và kháng chiến đă dần dần h́nh thành ba trung tâm đại học:

            1) Trung tâm Việt Bắc, gồm các trường Đại học Y, Ban Quân Dược, Cao đẳng         Công Chính, Cao đẳng Mỹ thuật.

            2) Trung tâm Thanh Nghệ với 2 phân hiệu Khoa học Xă Hội và Khoa học Tự          nhiên để đào tạo cán bộ Khoa học và giáo viên trung học

            3) Khu học xá Trung ương.

            Cũng cần nói thêm rằng ở miền Bắc trong vùng tạm chiếm có trường Đại học Khoa học và trường Cao đẳng Khoa học của Pháp đặt tại Hà Nội cùng với một số trường Đại học hệ Y - Dược, Đại học Luật Khoa và trường Cao đẳng chuyên ngành khác. Tất cả các trường Đại học và Cao đẳng này tập hợp thành Viện Đại học Đông Dương. Lưu ư rằng trong năm học 1941 - 1942 là năm có số sinh viên đông nhất th́ các trường đại học ở Hà Nội này cũng chỉ có 834 người, trong đó có 628 sinh viên Việt Nam (theo số liệu của Lược sử Đại học Tổng hợp Hà Nội do GS Đinh Xuân Lâm chủ biên).

          Chặng đường phát triển đầu tiên 1956 - 1965

            Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đă kết thúc cuộc Kháng chiến 9 năm của dân tộc Việt Nam. Ngày 1/1/1955 quân dân Hà Nội đón mừng Hồ Chủ Tịch, Trung ương Đảng và Chính Phủ trở về thủ đô.

            Các trường đại học cũng lần lượt chuyển về Hà Nội. Những ngày đầu gặp rất nhiều khó khăn. Khi thực dân Pháp rút về Nam, một số giáo sư và nhân viên nhà trường đă di cư vào Nam. Các thiết bị thí nghiệm, thư viện, hồ sơ cũng đều bị mang đi. Khu học xá Việt Nam (ở Đại học Bách khoa Hà Nội hiện nay), đă bị phá hỏng nghiêm trọng. Ḥa b́nh lập lại trên miền Bắc, ngay trong năm học 1954-1955, dựa vào cơ sở các trường đại học ở vùng tự do chuyển về, Bộ Giáo dục cho phép một số trường Đại học khai giảng trong đó có Đại học Văn khoa, Đại học Khoa học, Đại học Sư phạm Văn khoa và Đại học Sư phạm Khoa học, Đại học Y – Dược. Số sinh viên tuyển chọn gồm 300 sinh viên cũ từ các cơ sở đại học trong Kháng chiến về và 850 sinh viên mới tuyển.

            Cuối 1955 bộ Giáo dục cho nhập 2 trường Đại học Sư phạm Văn Khoa và Đại học Văn Khoa thành trường Đại học Sư phạm Văn Khoa cũng như 2 trường Đại học Sư phạm Khoa học và Đại học Khoa học hợp lại thành trường Đại học Sư phạm Khoa học.

            Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của sự nghiệp xây dựng đất nước và đấu tranh thống nhất nước nhà, kết hợp nhu cầu trước mắt, lâu dài và yêu cầu phát triển Khoa học Cơ bản và Khoa học Ứng dụng, ngày 4/6/1956 Chính phủ đă ra quyết định số 2183/TC thành lập 5 trường đại học: Đại học Tổng hợp, Đại học Y Dược, Đại học Bách khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Nông Lâm và 15 trường Trung học chuyên nghiệp.

            Thi hành quyết định của Chính phủ, ngày 4/9/1956 Bộ Giáo dục đă ra nghị định số 775-ND bổ nhiệm Giám đốc nhà trường, Chủ nhiệm và Phó chủ nhiệm các Khoa Toán - Lư – Hóa – Vạn (vạn là môn vạn vật ngày nay gọi là sinh học); Văn - Sử.

     Ngày 4 tháng 9 năm 1956 có thể xem là ngày bắt đầu hoạt động Khoa Toán ngày nay.

            Khu Đại học Việt Nam ở số 19 Lê Thánh Tông Hà Nội là cơ sở đầu tiên của Đại học Tổng hợp Hà Nội, nơi làm việc của Ban Giám đốc của các khoa và là nơi học tập của sinh viên. Khu Việt Nam học xá ở phố Bạch Mai là nơi ở của sinh viên nội trú.

            Giám đốc Đại học Tổng hợp là Giáo sư Ngụy Như KonTum, một nhà Vật lư nổi tiếng có thời kỳ là nghiên cứu sinh -  trợ giảng cho nhà bác học Giolio-Curie vĩ đại.

            Phó Giám đốc Đại học Tổng hợp là GS Lê Văn Thiêm người đă từng bảo vệ luận án tiến sĩ A Toán học tại Đức năm 1945 và đến năm 1948 bảo vệ luận án Tiến sĩ Quốc Gia về Toán tại Pháp. Năm 1949, ông trở về nước theo lời kêu gọi của Tổ quốc. Trong thời gian đầu  GS Lê Văn Thiêm làm Phó Giám đốc Đại học Tổng hợp phụ trách chuyên môn kiêm Chủ nhiệm khoa Toán - Lư – Hóa – Vạn.

GS Lê Văn Thiêm là người đặt nền móng cho sự phát triển nền khoa học tự nhiên và nền khoa học xă hội Việt Nam.

            Ngày 15/10/1956 khóa học đầu tiên của sinh viên ngành Toán đă được long trọng khai giảng tại giảng đường lớn Khu Đại học Việt Nam tại 19 Lê Thánh Tông, với 65 sinh viên ngành Toán (chiếm khoảng 15% tổng số sinh viên toàn trường).

            Các giảng viên Toán đầu tiên của Khoa là:

            GS Lê Văn Thiêm, GS Nguyễn Thúc Hào, Khúc Ngọc Khảm, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Hoàng Phương, Nguyễn Văn Chù, Lê Minh Khanh, Phó Đức Tố,  Phan Đức Chính, Hoàng Hữu Đường, Trần Văn Hạo.

            Theo sự phân công của GS Lê Văn Thiêm, trong những năm đầu tiên:

            Thầy Nguyễn Hoàng Phương và Nguyễn Bác Văn dạy Giải tích.

            Thầy Khúc Ngọc Khảm dạy Đại số.

            Thầy Nguyễn Cảnh Toàn dạy H́nh giải tích.

            Thầy Nguyễn Thúc Hào dạy H́nh vi phân.

            Thầy Phó Đức Tố dạy H́nh học họa h́nh.

            Thầy Nguyễn Văn Chù dạy Cơ lư thuyết.

            Thầy Lê Văn Thiêm dạy Hàm biến phức.

            Thầy Nguyễn Thừa Hợp dạy Phương tŕnh đạo hàm riêng.

            Các thầy Hoàng Hữu Đường, Trần Văn Hạo và Phan Đức Chính mới tốt nghiệp Đại học Sư phạm lúc đầu chữa bài tập H́nh học Giải tích và Đại số về sau các thầy dạy cả lư thuyết.

            Trong 2 năm học 1956 – 1957 và 1957 - 1958 vượt qua những thiếu thốn khó khăn nhiều mặt trong buổi đầu xây dựng, cán bộ và sinh viên của Khoa đă dần dần ổn định nền nếp học tập làm việc. Việc biên soạn chương tŕnh giáo tŕnh giảng dạy được đặt lên cấp thiết hàng đầu. Cán bộ của Khoa rất coi trọng tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước XHCN thời bấy giờ. Nhiều giáo tŕnh cơ sở trong nhiều lĩnh vực khác nhau của Toán học của Liên Xô thời bấy giờ đă được dịch ra tiếng Việt để làm tài liệu giảng dạy và tham khảo. Anh chị em sinh viên khóa I và khóa II miệt mài học tập, Khoa chuẩn bị đón sinh viên khóa III.

            Đội ngũ cán bộ, chương tŕnh giảng dạy được ổn định dần. Công tác nghiên cứu Khoa học trước hết nhằm nâng cao chất lượng đào tạo được chú trọng. Việc bồi dưỡng tŕnh độ cán bộ được coi trọng và có sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô thời bấy giờ. Giáo dục tư tưởng chính trị giữ vị trí quan trọng trong chương tŕnh và kế hoạch đào tạo. Các môn Khoa học về Chủ nghĩa Mác – Lenin được chú ư đặc biệt. Ngoại ngữ dạy tiếng Nga là chủ yếu. Mỗi khóa sinh viên được tham gia lao động chủ yếu là lao động nông nghiệp, một tháng  3 cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người dân.

            Với nhiều lư do khác nhau, chỉ có 25 sinh viên khóa I lên năm thứ 2. Chương tŕnh học trong những năm đầu mỗi khóa học 3 năm.

            Tháng 6 năm 1959 trường Đại học Tổng hợp Hà Nội làm lễ tốt nghiệp ra trường khóa đầu tiên (1956 - 1959) cho 219 sinh viên (trong đó có 17 nữ) trong số đó có 24 sinh viên ngành toán (có 2 nữ). Có 8 người trong số này là Nguyễn Công Thúy, Hoàng Hữu Như, Phạm Ngọc Thao, Hoàng Đức Nguyên, Nguyễn Hữu Ngự, Huỳnh Sum, Đào Huy Bích và Phan Văn Hạp sau này ở lại Khoa làm cán bộ giảng dạy.

            Bước vào năm 1960, cùng cả trường, Khoa Toán - Lư có bước chuyển ḿnh mạnh mẽ, qui mô đào tạo được mở rộng, số sinh viên tuyển vào trường từ 430 người năm học 1956 - 1957 tăng lên 967 người năm học 1960 - 1961 (ngành toán có 80 người).

            Song song với việc đào tạo dài hạn năm 1960 Khoa c̣n tổ chức mở lớp ngắn hạn bổ túc toán theo tŕnh độ đại cương 1 năm.

            Năm 1960 kư túc xá Phúc Xá được xây dựng dành cho sinh viên ngành Toán, Vật Lư và Hóa.

Ngày 26/01/1960 Bộ Giáo dục ra nghị định số 34-ND qui định bộ máy trường Đại học Tổng hợp gồm có: Khoa Tự nhiên, Khoa Xă hội, Pḥng Tổ chức Cán bộ, Pḥng Hành chính Quản trị, Kư túc xá.

            GS Lê Văn Thiêm vẫn là Phó Giám đốc Đại học Tổng hợp phụ trách chuyên môn kiêm Chủ nhiệm Khoa Tự nhiên.

            Ngày 22/10/1961 theo đề nghị của Giám đốc nhà trường, Bộ Giáo dục ra quyết định số 705/QD chia Khoa Tự nhiên thành 3 khoa: khoa Toán - Lư, khoa Sinh vật và khoa Hóa.

            Khoa Toán- Lư do GS Hoàng Tụy làm Chủ nhiệm, GS Nguyễn Hoàng Phương và nhà giáo Trần Văn Dung làm Phó Chủ nhiệm.

            Thầy Hoàng Tụy lúc này vừa bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (PTS) từ Liên Xô về. Sau này thầy trở thành nhà Toán học nổi tiếng trong nước và trên thế giới.

            Khoa Toán- Lư lớn mạnh nhanh chóng nên đến năm học 1964 - 1965 lại được tách thành 2 khoa: khoa Toán và khoa Vật Lư. Khoa Toán do GS Hoàng Tụy làm Chủ nhiệm. Nhà giáo Trần Vinh Hiển làm Phó Chủ nhiệm. Đến năm 1967  ông Quản Ngọc Hồ được bổ nhiệm bổ sung làm phó chủ nhiệm khoa.

            Thư viện trường được thành lập ngày 15/04/1959. Đến năm học 1964-1965 Khoa Toán đă có thư viện riêng do cô Bùi Thị Thụy Anh phụ trách. Tại thời điểm này, bộ máy tổ chức của Khoa Toán coi như đă ổn định, Khoa lúc này có 4 bộ môn.

Bộ môn Giải tích do thầy Hoàng Hữu Đường làm chủ nhiệm.

Bộ môn Xác suất do thầy Nguyễn Bác Văn làm chủ nhiệm.

Bộ môn Cơ học do thầy Khúc Ngọc Khảm chủ nhiệm sau được thay bởi thầy Nguyễn Chi.

Bộ môn Phương pháp tính do thầy Hoàng Tụy làm quyền chủ nhiệm.

            Về công tác đào tạo, tính đến năm học 1964-1965 Khoa đă đào tạo được 6 Khóa cho ngành Toán. Khóa I đào tạo được 24 người hầu hết đều trở thành cán bộ đầu đàn của ngành Toán ở các trường.

            Khóa II (1957-1960) gồm 14 người; trong đó số giữ lại Khoa làm cán bộ giảng dạy là: Phạm Quang Đức, Hoàng Gia Khánh, Nguyễn Khắc Phúc, Hồ Bá Thuận, Phạm Hữu Vĩnh và Nguyễn Chi.

            Khóa III (1958-1961) gồm 33 người. Những sinh viên tốt nghiệp khóa này được giữ lại giảng dạy ở Khoa là: Lê Xuân Cận, Bùi Công Cường, Phạm Văn Điều, Nguyễn Quư Hỷ, Thân Lầu, Đào Hà Phúc và Nguyễn Quốc Toản. Số c̣n lại của khóa II và khóa III hầu hết trở thành giảng viên Toán của các trường Đại học khác.

            Năm 1962 thầy Hoàng Hữu Như và thầy Nguyễn Đống từ Liên Xô về nước và tham gia giảng dạy ở khoa. Năm 1963 thầy Hoàng Hữu Như đi tiếp làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô.

            Từ khóa IV(1959-1962) do nhu cầu của xă hội và khả năng đáp ứng của đội ngũ giảng viên, Khoa bắt đầu mở rộng đào tạo mỗi khóa tuyển sinh không dưới 80 người.

            Khóa IV tuyển 80 người, sau 3 năm học tập th́ cho tốt nghiệp ra trường hầu hết, Khoa chỉ giữ lại 16 người có năng khiếu vượt trội để vừa học chương tŕnh bổ sung 1 năm (năm thứ 4) vừa tham gia chữa bài tập trợ giúp các giảng viên của Khoa. Số này được phân công học theo từng chuyên ngành cụ thể.

            Khóa này là khóa có nhiều người được giữ lại làm giảng viên cho Khoa đông nhất gồm: Nguyễn Ngọc Chất, Nguyễn Văn Gia, Nguyễn Lâm, Trần Đức Long, Nguyễn Xuân My, Nguyễn Văn Phó, Nguyễn Quang Thái, Trần Văn Triển.

            Sinh viên các khóa V, VI, VII được đào tạo theo mô h́nh tuyển sinh mỗi khóa khoảng 80 người, sau 3 năm ¾ số này  tốt nghiệp, c̣n 20 người học tiếp năm thứ 4 và sẽ tốt nghiệp hệ 4 năm. Về sau những người tốt nghiệp hệ 3 năm, sau một thời gian công tác được quay lại trường học bổ túc thêm 1 năm. Tuy chỉ 1 năm học tập những rất bổ ích v́ học viên có kiến thức cơ bản vững do đă qua công tác giảng dạy.

            Sinh viên các khóa V, VI, VII trong 2 năm cuối (năm thứ 3, năm thứ 4) được phân ra nhiều chuyên ban và được học các chuyên đề bắt buộc hoặc tự chọn.

            - Lư thuyết Nevalina.

            - Bổ túc Giải tích.

            - Bổ túc Xác suất.

            - Cơ lượng tử.

            - Lư thuyết bản vỏ .

            - Lư thuyết đàn dẻo.

            - Bổ túc Đại số.

            - Phương pháp tính.

            - Lư thuyết đồ thị và qui hoạch.

            - Lư thuyết luồng

              .….

            Sinh viên mỗi khóa 2 năm đầu được học tiếng Nga và năm cuối được học tiếng Anh. Do cố gắng học nên sau khi tốt nghiệp hầu hết đều sử dụng được sách toán viết bằng tiếng Nga hoặc bằng tiếng Anh.

            Về cơ sở vật chất từ 1960 Khoa đă có số lượng sinh viên hàng năm xấp xỉ 200 người. Khoa đă có được một số nhà cấp 4 ở Kư túc xá Phúc Xá để làm chỗ học và ăn ở cho sinh viên từ khóa V.

            Về chỗ làm việc cho cán bộ, khoa Toán và khoa Lư được sử dụng cơ sở số 9, phố Hai Bà Trưng, Hà Nội (Trường Albert Xaraut cũ). Đây là cơ sở làm việc trong những năm 1960 - 1965 của Ban Chủ nhiệm Khoa Toán, của Bí thư Khoa: Đào Hà Phúc, của Thư kư Khoa: Nguyễn Quốc Trụ và cũng là nơi đặt thư viện Khoa do thủ thư Bùi Thị Thụy Anh làm quản lư. Nơi đây cũng có một hội trường lớn, một số pḥng học chuyên đề và một số pḥng thí nghiệm dành cho Cơ học và Vật lư.

            Năm học 1964 -  1965 sinh viên Khoa Toán được chuyển về khu nhà D1 cạnh kư túc xá sinh viên Mễ Tŕ (nay thuộc quyền quản lư của trường Đại học Hà Nội ).

            Thi hành lệnh sơ tán khỏi thủ đô từ tháng 8/1965, Khoa Toán theo trường Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyển về huyện Đại Từ (Bắc Thái) thuộc vùng căn cứ địa Việt Bắc hồi kháng chiến chống Pháp.

            Về đội ngũ giảng viên của Khoa Toán:

            Khóa V cung cấp: Nguyễn Xuân Bôi, Đặng Hữu Đạo, Nguyễn Cát Hồ, Nguyễn Văn Hữu.

            Khóa VI cung cấp: Nguyễn Khắc Lân, Nguyễn Viết Phú, Nguyễn Duy Tiến.

            Cho đến năm 1965 Khoa c̣n được bổ sung nguồn cán bộ được đào tạo từ nước ngoài về (chủ yếu từ Liên Xô).

             Bùi Tường (1959)

            Nguyễn Đống (1962)

            Vương Quốc Cường (1963)

            Lê Đ́nh Thịnh (1963)

            Nguyễn Trường (1964)

            Đặc biệt năm học 1965 – 1966 có 4 tiến sĩ (PTS) vừa hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu ở Liên Xô về gồm Đào Huy Bích (1965), Phan Văn Hạp (1965), Nguyễn Hữu Ngự (1965) và Hoàng Hữu Như (1966).

            Như vậy cho đến năm học 1965 - 1966 Khoa đă có gần 40 cán bộ giảng viên với chất lượng được chọn lọc, trong đó có 6 tiến sĩ (PTS), một thành công rất đáng khâm phục về việc xây dựng đội ngũ trong 10 năm đầu tiên đầy khó khăn.

            Song song với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Khoa rất chú trọng nâng cao năng lực cán bộ. Một số cán bộ lần lượt được cử đi nghiên cứu sinh, thực tập sinh ở nước ngoài. Nhà trường và Khoa đă mời một số chuyên gia toán học từ đất nước Liên Xô đến Khoa để bồi dưỡng cán bộ như GS Ersov (1961-1963), GS Lukianov, GS Ovchinikov, GS Ghirsanov (1962-1963) và GS Lavrentiev (1963),... Quan trọng hơn hết là tinh thần tự học, tự nghiên cứu để nâng cao tŕnh độ của đội ngũ cán bộ vừa trẻ vừa nhiệt huyết tràn đầy, vừa tự bồi dưỡng để dạy, để viết giáo tŕnh, dịch sách phục vụ việc chuyển từ đào tạo 3 năm mỗi khóa lên hệ đào tạo 4 năm chỉ sau 5 năm thành lập, v́ việc đào tạo năm thứ 4 đ̣i hỏi chuẩn bị chuyên đề và đề tài khóa luận công phu. Hàng chục giáo tŕnh được biên soạn hoặc dịch ra đời trong những năm này.

            Song song với việc đẩy mạnh công tác đào tạo, Khoa chú trọng với công tác nghiên cứu khoa học. Điển h́nh là từ năm 1960 đến năm 1965 nhà trường đă tổ chức 5 hội nghị khoa học lớn với 506 đề tài, trong đó Khoa Toán có nhiều đề tài. Cán bộ và sinh viên Khoa Toán đă đi tiên phong trong việc ứng dụng vận trù học trong giao thông vận tải và sản xuất, trong việc ứng dụng xác suất lập bảng bắn cho pháo binh, trong việc ứng dụng cơ học để tính toán thông số kỹ thuật cho cầu treo và cầu dây.

            Tuy Khoa c̣n non trẻ nhưng vẫn có những hướng nghiên cứu mạnh. Năm 1964 GS Hoàng Tụy đă công bố công tŕnh “Concave programming under linear constraints” trong Báo cáo của Viện Hàn Lâm Khoa học Liên Xô. Ngày nay giới khoa học quốc tế gọi phương pháp tiếp cận trong công tŕnh nền móng đó là “ Lát cắt Tụy ” mở đầu cho lư thuyết tối ưu toàn cục.

            Năm 1965 những kết quả chính trong luận án Tiến sĩ (PTS) được thầy Phan Đức Chính bảo vệ thành công tại trường Đại học Tổng hợp Lomonosov đă được tổng kết trong cuốn sách chuyên khảo “мера производная и интеграл” viết chung với GS Shylov, nhà xuất bản Nauka (Liên Xô) phát hành và được dịch ra nhiều thứ tiếng Anh, Tiệp,...

            Thành tựu 9 năm xây dựng và trưởng thành (1956-1965) của Khoa Toán là rất to lớn và cơ bản, đă tạo ra một nền móng vũng chắc để Khoa có thể vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đồng thời đào tạo cho đất nước hàng trăm cán bộ ngành Toán phục vụ kịp thời nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu Toán cho các trường Đại học, Cao Đẳng và Trung học chuyên nghiệp toàn miền Bắc.

           Khoa Toán – Những ngày sơ tán ở Đại Từ (Bắc Thái)

            Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc. Thực hiện chủ trương sơ tán các trường đại học ra khỏi Thành phố Hà Nội, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được quyết định sơ tán lên huyện Đại Từ, Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên). Khoa toán được sơ tán về xă Văn Yên – huyện Đại Từ.

            Kết thúc năm học 1964 – 1965 toàn bộ Khoa Toán di chuyển lên địa điểm sơ tán.

            Khoa bộ (gồm lănh đạo và toàn bộ giảng viên, công nhân viên) đóng tại thôn Cầu Găng. Sinh viên được bố trí ở các xóm Đ́nh, Đầm Mây, Kỳ Linh, Kẽm Phương, Ba Trang.

            Trong hè 1965 toàn bộ Khoa xây dựng cơ sở vật chất tối thiểu cho công việc dạy, học và phục vụ. Giảng viên, cán bộ công nhân viên và sinh viên đều ở nhờ nhà dân.

            Việc xây dựng nhà hồi đó cũng rất thô sơ, cán bộ sinh viên vào rừng chặt gỗ, chặt tre nứa về làm nhà có sự hỗ trợ của một vài cán bộ thuộc bộ phận xây dựng của trường, nhưng chủ yếu là tự mày ṃ và học hỏi kinh nghiệm của dân. Các nhà được xây dựng có mái lợp tranh nứa, vách đất hoặc phên đan.

            Ngay những ngày đầu tiên Khoa đă xây dựng được một bếp nấu ăn và một nhà ăn đặt bên cạnh một con suối để tiện có nước sử dụng; một nhà thư viện để sách và pḥng đọc, đồng thời cũng là chỗ đặt bóng bàn, vừa để đọc sách vừa là chỗ đánh bóng bàn sau giờ làm việc.

            Một nhà dùng để Ban Chủ nhiệm Khoa và Văn pḥng Khoa làm việc. Ngoài ba vị là Chánh phó chủ nhiệm Khoa đă nói ở trên, lúc bấy giờ c̣n có ông La Trung Quyền làm Bí thư Khoa và ông Nguyễn Quốc Trụ làm Thư kư Khoa.

            Khoa c̣n cho xây dựng ngay một nhà làm pḥng họp và cũng là nơi sinh hoạt khoa học của các bộ môn.

            Đối với các lớp sinh viên trong những ngày đầu tập trung xây dựng mỗi lớp một nhà ăn và một pḥng học do sinh viên tự làm.

            Để giúp Khoa chỉ đạo xây dựng cơ sở vật chất, Khoa thành lập một ban xây dựng gồm thầy Đặng Huy Ruận (trưởng ban), thầy Nguyễn Khắc Lân và thầy Nguyễn Đ́nh Sang. Ban này tiếp tục chỉ đạo xây dựng thêm một số nhà ở khoa bộ và các lớp sinh viên.

            Lúc mới lên khu sơ tán

            Khóa 7 chỉ c̣n năm thứ 4 có 20 người bố trí ở xóm Đ́nh.

            Khóa 8 bố trí ở xóm Đầm Mây.

            Khóa 9 bố trí ở xóm Ba Trang.

            Khóa 10 bố trí ở thôn Kỳ Linh.

            Những năm sau có thêm các khóa 11 và 12 bố trí ở thôn Đầm Mây và Kẽm Phượng. Khóa 13 bố trí ở vào chỗ khóa 8 đă ra trường.

            Cũng từ hè năm 1965 theo sáng kiến của GS Lê Văn Thiêm, GS Hoàng Tụy và được sự ủng hộ của Giáo sư, Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, Thủ tướng Phạm Văn Đồng  đă quyết định cho thành lập các lớp chuyên toán. Khoa Toán cho tuyển sinh lớp chuyên toán đầu tiên (khóa I) được bố trí ở tại xóm Đ́nh. Kế đó là khóa II chuyên toán cũng được đào tạo tại khu sơ tán và bố trí ở xóm Na Buồn với kư hiệu là A0 (A08, A09).

            Mặc dù cả nước đang ở trong t́nh trạng chiến tranh, lại đóng trên địa bàn rừng núi, nhưng số lượng sinh viên Khoa Toán phát triển rất nhanh.

            Năm học 1965 – 1966 có 4 lớp sinh viên (4 khóa 7 +8 +9 +10) và một lớp chuyên toán.

            Năm 1966 – 1967 đă có 7 lớp do khóa 11 có 2 lớp (một lớp Toán và một lớp Cơ) và lúc này đă có 2 lớp chuyên toán.

            Do thời gian này nhà nước cho thành lập nhiều trường đại học mới và nhiều trường trung cấp mới, giáo viên toán bị thiếu nhiều. Trong 2 năm học 1967 – 1969 Khoa Toán phải đảm nhiệm đào tạo 4 lớp chuyên tu. Hai lớp chuyên tu đại học có nguồn tuyển sinh là các sinh viên học giỏi toán ở các trường đại học để đào tạo trong 2 năm, tốt nghiệp xong về làm giảng viên Toán ở các trường Đại học Kỹ thuật, được kư hiệu là ADH1 và ADH2. Hai lớp chuyên tu trung học có nguồn tuyển sinh là các học sinh vừa tốt nghiệp các trường trung cấp có học lực giỏi về môn toán đưa vào đào tạo trong 2 năm để về giảng dạy toán các trường trung cấp kư hiệu là ATH1 và ATH2. Như vậy trong thời gian này, mỗi năm Khoa Toán có trên 10 lớp sinh viên và học sinh chuyên Toán.

            Việc bổ sung đội ngũ giáo viên trong khoảng thời gian sơ tán:

            Năm 1965 bổ sung thêm 4 giảng viên tốt nghiệp khóa 6 là các thầy: La Trung Quyền, Nguyễn Viết Phú, Nguyễn Duy Tiến và Nguyễn Khắc Lân.

            Năm 1966 Khoa được bổ sung thêm 3 giảng viên tốt nghiệp khóa 7 là các thầy Đào Hữu Hồ, Hoàng Phong Oanh và Nguyễn Đ́nh Sang. Về sau có thêm thầy Trần Trọng Huệ.

            Năm 1967 Khoa được bổ sung nữ giảng viên tốt nghiệp khóa 8 là Lê Thị Lan.

            Các giảng viên được bổ sung năm 1968 sau khi tốt nghiệp khóa 9 là: Thầy Chu Đức, Hoàng Quốc Toàn, Đoàn Ái Thơ,  Hồ Ước.

            Những giảng viên tốt nghiệp nước ngoài được bổ sung về Khoa từ cuối năm 1965 – 1968 là: Vơ Đức Tôn, Nguyễn Thủy Thanh, Đặng Huy Ruận, Nguyễn Thế Hoàn, Đinh Mạnh Tường, Nguyễn Thị Ngọc Quyên.

            Điều kiện dạy và học

            Thời bấy giờ các “giảng đường” chỉ là nhà tranh vách đất, từ bàn ghế giáo viên đến bàn ghế học sinh đều tự tạo, chân bàn ghế được chôn xuống đất, mặt bàn ghép tre nứa làm nên, mặt ghế là một cây gỗ dài được đẽo phẳng, hoặc ghép 3 cây luồng với nhau.

            Bảng đen là vật duy nhất trong pḥng học được thợ mộc đóng cẩn thận, sơn đen để có thể viết được phấn sản xuất từ đất sét trắng.

            Hồi đó, sinh viên được bố trí ở gần lớp học, c̣n các thầy mà đến lớp th́ lắm nỗi gian truân. Xe đạp có nhưng không dùng được v́ các lớp hầu hết đặt trên đồi cao, nhất là đi dạy các lớp ở Ba Trang th́ phải qua mấy đèo cao.

            Giáo viên Khoa Toán c̣n phải tham gia giảng dạy các môn toán ở các khoa ngoài như Lư, Hóa, Sinh, Địa. Thời đó khoa nào cũng phát triển nhanh, nhiều giờ học toán, lại ở cách Khoa Toán khá xa, nhất là Khoa Địa ở Lục Ba, Khoa Sinh ở Kư Phú. Phương tiện đi lại duy nhất là xe đạp, nhưng phải nói thêm rằng các loai phụ tùng xe đạp muốn có cũng phải chờ phân phối, tốt nhất là chọn phương án đi bộ. Những ngày mưa mới thấy thấm thía nỗi gian lao của việc đi dạy ở khu sơ tán! May sao chưa một ai trong Khoa ngấm đ̣n lũ cuốn hoặc lũ ống. Trận lũ ống năm 1967 chỉ cuốn mất một số khá lớn sách của thư viện Khoa.

            Thời gian soạn bài chủ yếu làm vào ban ngày v́ ban đêm chỉ có đèn dầu hỏa tối mù. Những giáo viên có nhiều giờ dạy cả sáng lẫn chiều th́ chỉ c̣n cách soạn bài vào buổi trưa. Cần nhấn mạnh thêm thầy giáo hồi đó phần lớn mới ra trường nên giáo án nào cũng mới, thầy cô nào cũng chuẩn bị chu đáo và công phu với rất nhiều thời gian.

Ngày chủ nhật giáo viên thường đi vào rừng chặt củi, chặt nứa theo sự vận động của công đoàn.

            Điều kiện ăn ở

            Bếp ăn tập thể của Khoa bộ lúc bấy giờ có 2 người phục vụ, Bà Nguyên và Bà Sửu.

            Lương thực và thực phẩm do nhà kho của Khoa cung cấp. Kho lương thực, thực phẩm đặt tại Xóm Đ́nh do Ông Sửu làm quản lư và Bà Gái làm thủ kho. Kho này cung cấp lương thực và thực phẩm cho các bếp ăn Khoa bộ và bếp ăn các lớp sinh viên.

            Nhà kho chỉ có mấy loại chính: gạo, bột ḿ, muối, nước mắm và mỡ lợn. Thịt lợn theo tem phiếu, rau củ th́ do tiếp phẩm mua về cung cấp.

            Gạo và bột ḿ cũng theo tem phiếu, thường số lượng ngang nhau. Nhà bếp của Khoa nấu ngày 2 bữa. Bữa trưa ăn cơm với thức ăn thanh đạm, c̣n bữa tối th́ bột ḿ nắm lại luộc lên ăn với canh “toàn quốc” là tên gọi loại canh với một chảo đầy nước pha mặn bằng muối và thả vào vài ba củ su hào băm nhỏ.

            Buổi sáng các thầy cô phần lớn là nhịn ăn, v́ chẳng biết ăn ǵ, muốn ăn cái bánh rán phải ra tận Lục Ba, c̣n muốn ăn một bát phở, bát ḿ “không người lái” (tức là không có thịt) phải ra tận Đại Từ.

            Nhiều hôm đói quá rủ nhau mua trong dân mấy củ sắn củ khoai (và cũng chỉ có hai loại đó) luộc vào buổi tối í ới gọi nhau ăn và không quên để một ít sáng mai ăn nếu hôm sau có giờ dạy vào buổi sáng.

            Để cải thiện bữa ăn, công đoàn Khoa thường tổ chức cán bộ công nhân viên đi vào rừng chặt củi, rất tiếc là không c̣n bức ảnh nào chụp được các thầy cô gốc thành phố c̣ng lưng gánh củi, không rơ là đang gánh trên vai hay đang đỡ bằng hai tay!

Thầy cô nào may mắn t́m được một miếng đất trồng một giống rau ǵ đó để góp vào nhà ăn.

            Cũng có lần Khoa Toán đi phát hoang đồi để trồng sắn, nhưng oái oăm thay sắn không chịu ra củ!

            Vui nhất là lúc cùng nhau mổ một con lợn tự nuôi của bếp ăn tập thể. Thức ăn khan hiếm nên tuy lợn chẳng béo nhưng ăn vẫn ngon.

            Nhà dân Cầu Găng không đến nỗi quá nhỏ bé, nên việc ở nhờ tạm ổn. Khí hậu vùng núi rất thất thường trong mưa nắng. Rét th́ rét đậm, nhưng v́ không có điện nên sợ nhất vẫn là cái nóng. Mặc quần áo xà lỏn trong nhà dân là điều không nên nhưng nóng quá phải liều, dần rồi cũng quen.

            Bám trụ

            Có việc cần về Hà Nội phải đạp xe 35km mới đến ga xe lửa đầu tiên là ga Quán Triều để lên tàu hỏa về Hà Nội. Tàu chạy tốc độ không nhanh hơn xe đạp, nên có lúc đạp xe thẳng về Hà Nội. Ngược đường từ Hà Nội lên khu sơ tán mới đáng ngại. Mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu đi từ Hà Nội đến Thái Nguyên, lên đến ga cuối cùng là ga Quán Triều đă quá khuya, ngủ lại nhà trọ th́ có nhiều rệp và rận, c̣n đạp xe đi tiếp th́ đi đêm trên đường rừng sợ không an toàn, nhiều lần rải tấm ni lông ngồi trong ga chờ sáng đạp xe về khu sơ tán.

            Về Hà Nội thời gian đó chủ yếu tham gia sinh hoạt khoa học ở các cơ quan khác, ví dụ như Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước hồi đó không sơ tán ở lại số nhà 39 Trần Hưng Đạo, hay Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển ở khu Đồi Thông, phố Đội Cấn .

Việc đi lại khó khăn nên chủ yếu vẫn là bám trụ nơi sơ tán.

            Niềm vui dạy học

            Chưa kể giáo viên chuyên Toán, cán bộ giảng dạy của Khoa thời gian lúc đó cao nhất có khoảng 40 người, nhưng lớp dạy trong và ngoài Khoa lên tới vài chục lớp, số giờ dạy tính b́nh quân theo đầu người khá cao, mới ra trường đă phải lên lớp ngay, không chỉ chữa bài tập mà c̣n dạy cả lư thuyết. Có chuyên đề vừa tự đọc vừa dạy.

            Ăn đói, mặc chưa đủ ấm, nhưng mọi người trong Khoa vẫn rất say sưa với việc dạy học. Dạy tận tâm, không cắt xén chương tŕnh, không cắt xén bài giảng, soạn bài cẩn thận và thường xuyên bám lớp. Đó là những đặc điểm của các thầy cô trong thời gian sơ tán.

            Công việc nghiên cứu khoa học nhất là nghiên cứu ứng dụng toán học rất được quan tâm. Sinh viên năm cuối ngày càng đông, chất lượng khóa luận tốt nghiệp yêu cầu khá cao, đă thôi thúc cán bộ Khoa nghiên cứu nhằm phục vụ yêu cầu này.

            Để phục vụ việc đào sâu kênh nhà Lê (đoạn qua Nghệ An) nhằm vận chuyển vũ khí vào Nam trong điều kiện đường bộ bị đánh phá ác liệt, dưới sự chỉ đạo của giáo sư Lê Văn Thiêm, thầy Nguyễn Văn Lâm cùng với một số sinh viên năm cuối khóa 7 đă phối hợp với Cục Vận tải Đường thủy -  Bộ Giao thông Vận tải sử dụng phương pháp nổ ḿn định hướng để đào sâu kênh Nhà Lê, tiết kiệm công nạo vét sau khi nổ ḿn từ cuối năm 1965 đến cuối năm 1966.

            Các thầy Nguyễn Bác Văn, Phạm Quang Đức, Phan Văn Hạp, Nguyễn Quư Hỷ, Nguyễn Văn Hữu đă dẫn một số sinh viên cuối khóa 1966 – 1967 đến Bộ tư lệnh Pháo binh lập bảng bắn pháo binh. Kết quả là bảng bắn pháo do Liên Xô lập đă được chỉnh sửa lại cho phù hợp với điều kiện Việt Nam và được sử dụng cho pháo binh ở Cồn Tiên – Dốc Miếu cũng như một số nơi khác nữa.

            Cũng trong 2 năm 1966 -1967 các thầy Lê Minh Khanh, Phạm Hữu Vĩnh, Đào Huy Bích và Phan Văn Hạp dẫn sinh viên năm cuối ngành Cơ đến Viện Kỹ thuật Giao thông để tính toán các thông số kỹ thuật làm cầu phao, cầu dây đây là những loại cầu đang rất cần dùng để đối phó chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

            Các thầy Nguyễn Quư Hỷ, Hoàng Đức Nguyên đă dẫn sinh viên đi thực tập, thực tế sử dụng phương pháp vận trù để hợp lư hóa giao thông hoặc cắt vật liệu để sản xuất thành phẩm sắt tráng men.

            Các thầy Nguyễn Hữu Ngự, Trần Đức Long trong các năm 1965 – 1966 đă được cử đi thực tế chiến trường và làm việc tại ban tham mưu vận tải của đoàn vận tải Trường Sơn (đoàn 559) nhằm góp phần ứng dụng toán học trong vận tải quân sự.

            Việc nghiên cứu lư thuyết, nhiều thầy giáo trong Khoa đă nêu cao tinh thần tự học, tự nghiên cứu. Điển h́nh là thầy Hoàng Hữu Đường, trong điều kiện khó khăn như vậy, vẫn có những kết quả nghiên cứu về lư thuyết véctơ đặc trưng và ứng dụng, đăng trong tạp chí Phương tŕnh vi phân của Liên Xô hồi đó. Thầy Nguyễn Thừa Hợp, thầy Đặng Huy Ruận có các kết quả đăng ở Báo cáo Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Thầy Hoàng Hữu Như là người Việt Nam đầu tiên có bài đăng trong tạp chí Lư thuyết Xác suất và ứng dụng của Liên Xô,…

            Tuy chưa tổng kết được đầy đủ việc đội ngũ sinh viên được đào tạo trong thời kỳ sơ tán bước vào đời công tác hiệu quả như thế nào, nhưng có điều chắc chắn là số sinh viên này sau khi ra trường sẽ làm việc rất hăng hái v́ họ trưởng thành trong gian khó và v́ họ không những được học những bài học trên lớp mà học được cả những bài học say sưa công việc và vượt khó từ các tấm gương chính là người thầy của ḿnh.

            Nh́n lại, cần t́m một câu trả lời là tại sao trong điều kiện khó khăn như lúc sơ tán mà việc đào tạo vẫn đạt kết quả tốt?

Có lẽ phải bằng ḷng với giải thích rằng:

     + Mọi hoạt động của Khoa Toán được đặt trong không khí hào hùng của cả nước cùng chống Mỹ cứu nước.

+ Đội ngũ học sinh sinh viên lúc bấy giờ rất ham học và rất chịu khó.

+ Đội ngũ cán bộ giảng viên của Khoa lúc bấy giờ c̣n rất trẻ. Toàn Khoa chưa có ai quá 40 tuổi, số người có gia đ́nh riêng rất ít. Đúng là sức trẻ đạp bằng mọi khó khăn.

            Một chặng đường 4 năm là rất ngắn trong lịch sử phát triển của khoa Toán, nhưng 4 năm ở địa điểm sơ tán Bắc Thái lại là một thử thách rất có ư nghĩa.

            Dù khiêm tốn đến mấy, vẫn có thể nói rằng: Việc say mê dạy và học trong điều kiện hết sức khó khăn của thầy tṛ Khoa Toán nói riêng và của các trường Đại học miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ đă góp phần trả lời câu hỏi “V́ sao đế quốc Mỹ không thể thắng ở Việt Nam?”.

            Đến đây xin chuyển sang đề tài khác:

            Khối chuyên Toán h́nh thành và xây dựng

            Tổ chức đào tạo chuyên Toán, một h́nh thức đào tạo nhân tài cho đất nước, ngay từ lúc c̣n chiến tranh ác liệt, đón đầu tương lai.

Hai lớp chuyên Toán đầu tiên ở khu sơ tán Bắc Thái

            Với ư tưởng mở lớp đào tạo học sinh có năng khiếu toán theo sáng kiến của GS Lê Văn Thiêm và GS Hoàng Tụy, được sự ủng hộ của  Giáo sư, Bộ trưởng Tạ Quang Bửu,  tháng 9 năm 1965 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă ra quyết định cho mở lớp “Toán đặc biệt” tại Khoa Toán. Đây là một ư tưởng đào tạo nhân tài cho đất nước ngay trong thời kỳ chiến tranh ác liệt để đón đầu tương lai.

            Tháng 10 năm 1965, 38 học sinh với độ tuổi 15, 16 từ nhiều tỉnh thành của miền Bắc đă tập trung về Phúc Xá quận Ba Đ́nh, Hà Nội và được ô tô chở lên khu sơ tán Đại Từ, Bắc Thái để h́nh thành lớp Toán đặc biệt khóa I.

            Tháng 9 năm 1966 lớp Toán đặc biệt khóa II gồm 60 học sinh nhập trường. Đây là hai khóa chuyên toán đầu tiên của Khoa được đào tạo hoàn toàn ở khu sơ tán Bắc Thái. Có thể xem đây là mốc đầu tiên của hệ thống trường chuyên lớp chọn ở bậc trung học phổ thông trong cả nước.

            Hai lớp toán đặc biệt được mang mă số A09 và A010 được học trong các lớp học nhà tranh vách nứa ở xóm Đ́nh, xă Văn Yên thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái. Các khoa của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nhất là Khoa Toán đă cử những giáo viên có tŕnh độ và nhiệt t́nh giảng dạy cho các em. Các thầy vừa dạy vừa rút kinh nghiệm về giáo tŕnh và phương pháp.

            Đây là loại h́nh giáo dục trung học phổ thông (THPT) chuyên đầu tiên của nước ta nên chưa có chương tŕnh, tài liệu và bài giảng. Tất cả phải tự mày ṃ trong điều kiện cơ sở vật chất hết sức khó khăn của thời chiến, nhưng chương tŕnh đào tạo vẫn được xây dựng một cách khoa học và khá toàn diện.

            Những giáo viên Toán đầu tiên của các lớp chuyên Toán đặc biệt là các thầy: Hoàng Tụy, Phan Đức Chính, Nguyễn Thừa Hợp, Phạm Văn Điều, Nguyễn Bác Văn, Phạm Tấn Dương, Lê Đ́nh Thịnh, Nguyễn Hữu Ngự, Nguyễn Duy Tiến…

            Kết quả đạt được của hai khoa Toán đặc biệt trong thời kỳ sơ tán ở miền rừng núi Bắc Thái thật đáng trân trọng. Hồi đó ta chưa tham gia thi Olympic toán quốc tế nhưng đội tuyển học sinh chuyên Toán khóa II của Khoa tham dự kỳ thi học sinh giỏi toán toàn miền Bắc của năm cuối phổ thông đă đạt 9/10 giải thưởng. Số học sinh tốt nghiệp hai khóa Toán đặc biệt này hầu hết rất thành đạt trong các cương vị công tác khác nhau; trong đó đa số đă có học vị Tiến sĩ, Tiến sĩ Khoa học, phần lớn trong số đó được phong Phó giáo sư, Giáo sư, một số đă đảm đương những trọng trách lớn của Đảng và Nhà nước như hai cựu học sinh Trần Văn Nhung, Đào Trọng Thi.

            Trở về Hà Nội – sơ tán lần II (Giai đoạn 1969 – 1975)

            Năm 1968 đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện ném bom miền bắc. Kết thúc năm học 1968 – 1969, Khoa Toán được lệnh chuyển về Đông Anh cùng với toàn bộ Trường Đại học Tổng hợp. Lúc này lănh đạo Khoa Toán có sự thay đổi. Từ năm 1967 Giáo sư Hoàng Tụy chuyển về công tác ở Viện Toán, Nhà giáo Trần Vinh Hiển đươc cử làm quyền Chủ Nhiệm Khoa, GS Đào Huy Bích được giao nhiệm vụ Bí thư Khoa. Cho đến tháng 4/1970 Bộ trưởng Bộ GD&ĐT có quyết định bổ nhiệm GS Phan Văn Hạp làm Chủ nhiệm Khoa, GS Đào Huy Bích và hai thầy Trần Vinh Hiển và Quản Ngọc Hồ được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Khoa. Nhà giáo Nguyễn Hàm Giá được cử làm Bí thư khoa. Cũng từ năm 1970 Khoa Toán được đổi tên thành Khoa Toán – Cơ, sau khi Cơ học đă trở thành ngành đào tạo chính thức.

            Hè năm 1969 Khoa chuyển về xă Đông Hội, huyện Đông Anh. Đây là bước quá độ để trở về cơ sở ở nội thành. Khoa bộ được đặt ở Thôn Trung Thôn, sinh viên chính quy từ năm thứ nhất đến năm thứ 4 ở các thôn Tiên Hội, Hội Phụ, Lai Đà. Sinh viên hệ chuyên tu ở thôn Đông Ngàn. Đây chỉ là địa điểm trung chuyển để năm 1970 về nội thành nên Thầy tṛ ở tạm trong nhà dân, chỉ dựng một số nhà tạm làm lớp học, thư viện và nhà ăn. Lúc này đều kiện học tập và ăn ở khá hơn, nhưng việc học không được tập trung như thời kỳ sơ tán Bắc Thái.

            Sau một năm ở Đông Anh, hè năm 1970 Khoa được chuyển về Hà Nội, Thầy Cô giáo, cán bộ công nhân viên và sinh viên Khoa Toán sống nội trú về ở tại kư túc xá Mễ Tŕ, giảng dạy và học tập ở cơ sở Thượng Đ́nh. Một số Thầy Cô có gia đ́nh riêng được ở tại các nhà cấp 4, nhà tranh tre chuyển từ Đông Anh về cơ sở Thượng Đ́nh.

            Trong các năm 1971, 1972 và 1974 do nhu cầu của chiến trường, nhiều Thầy giáo và sinh viên đă nhập ngũ tham gia vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc để giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Các Thầy đă nhập ngũ là Nguyễn Xuân My, Nguyễn Đ́nh Sang, Hồ Ước, Nguyễn Văn Xuất, Hà Công Khanh, Nguyễn Văn Xoa, Phan Xuân Vỹ,… Hơn một trăm sinh viên Khoa Toán – Cơ đă lên đường nhập ngũ tham gia cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chỉ riêng khóa 15 có 100 người nhập trường năm 1971 th́ đă có tới 40 sinh viên nhập ngũ trong 4 đợt tuyển quân cuối năm 1971 đầu năm 1972.

            Nhiều Thầy giáo và sinh viên đă chiến đấu anh dũng trên chiến trường. Một số người đă hy sinh anh dũng và được công nhận là liệt sỹ như Đinh Chí Dưỡng, Nguyễn Duy, Đào Công Khắc, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Minh, Tạ Quang Sỏi, Nguyễn Văn Thạc(*), Nguyễn Văn Tuần, Phạm Năng Tĩnh, Lê Văn Vy, Hoàng Văn Y. Nhiều người khác được công nhận là thương binh thời chống Mỹ như: Nguyễn Lâm (nay là cán bộ pḥng Đào Tạo ĐHKHTN), Phạm Văn Đức, Ngô Minh Tuân, Nguyễn Đ́nh Quang, Ngô Đức Thơ, Nguyễn Hữu Sở, Trần Anh Dũng, Đỗ Thanh Sơn.

            Cũng cần nói thêm ngoài hơn một trăm sinh viên đang học, sẵn sang rời ghế nhà trường lên đường trực tiếp đánh Mỹ c̣n có rất nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp Khoa Toán đă gia nhập quân đội để phục vụ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

 

(*) Nhân vật chính của cuốn nhật kư “Măi măi tuổi 20” (tên cuốn nhật kư “Chuyện đời”) là liệt sỹ Nguyễn Văn Thạc – Sinh viên khóa 15 của Khoa Toán – Cơ, nhập ngũ ngày 6 tháng 9 năm 1971 và hy sinh tại chiến trường Quảng Trị ngày 30 tháng 7 năm 1972”

*

*          *          *

Giai đoạn 1969 – 1974 là giai đoạn khoa Toán – Cơ có nhiều biến động, trước hết là biến động về tổ chức như đă nói ở trên. Khoa lại phải di chuyển địa điểm từ Đại Từ về Đông Anh, từ Đông Anh về nội thành, từ nội thành về Quang Minh, từ Quang Minh về Hiệp Ḥa và cuối cùng từ Hiệp Ḥa về nội thành Hà Nội.

            Một số công việc mới xuất hiện

            Năm 1970 là năm đầu tiên kể từ khi xẩy ra chiến tranh phá hoại  thay cho việc cử tuyển bằng thi tuyển. Trường ĐHTH HN được phân công tổ chức thi tuyển sinh tại tỉnh Nghệ An. Trong 6 năm liền kể từ năm 1970 hàng năm cứ vào dịp tuyển sinh cán bộ Khoa Toán cùng cán bộ toàn trường vào Nghệ An coi thi. Năm 1972 chiến tranh phá hoại ác liệt ở vùng khu bốn cũ, trường ĐHTH vẫn duy tŕ công tác tuyển sinh có cán bộ của trường đă bị thương trong dịp này. Khoa Toán không những tham gia coi thi mà c̣n tham gia chấm thi.

            Năm 1971, cơn lũ lịch sử đă gây thiệt hại lớn cho đồng bằng Bắc Bộ, thành phố Hà Nội bị vỡ đê Cống Thôn, nhiều kho tàng bị lũ tàn phá nặng nề. Bộ trưởng Bộ Đại học và THCN chỉ đạo trực tiếp các trường đưa hàng chục ngàn sinh viên và cán bộ trực tiếp cứu dân, cứu tài sản trong đợt lũ và tham gia khắc phục hậu quả. Cán bộ và sinh viên Khoa Toán – Cơ tham gia cứu kho gạo trung tâm tại Yên Viên, hàng tuần ngâm ḿnh dưới nước kéo hàng ngàn bao gạo đă bốc mùi từ kho tới nơi tập kết. Sau đó, cán bộ cùng sinh viên tiếp tục tham gia giúp đồng bào vùng lũ Đông Anh, Gia Lâm khắc phục hậu quả trong thời gian gần 1 tháng (cuối tháng 10 qua tháng 11 năm 1971). Năm 1972 cũng để góp phần vào khắc phục hậu quả của một đợt lũ lụt khác, hàng trăm sinh viên Khoa Toán – Cơ đă tham gia lao động trên công trường Quế Vơ ( Hà Bắc) cùng với trường ĐH Tổng hợp đă góp được 12.000 công.

            Trong điều kiện như vậy Khoa Toán vẫn giữ vững và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo thích hợp với ḥan cảnh cụ thể. Tại khu sơ tán một đoàn giáo sư từ phân Viện khoa học và Đại học tổng hợp Nôvôxibiếc của Liên Xô sang thăm trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và được GS Lê Văn Thiêm dẫn về thăm Khoa, họ rất ngạc nhiên và khen ngợi cách tổ chức giảng dạy của ta trong chiến tranh. Một dẫn chứng về thành tích đào tạo năm 1970 là năm số sinh viên tốt nghiệp đông nhất từ trước đến lúc bấy giờ gần 200 người với chất lượng đảm bảo. Trong thời gian này bằng những nổ lực cụ thể của ḿnh cán bộ và sinh viên Khoa Toán – Cơ đă tập trung cao độ cho việc góp phần  thiết thực cùng quân và dân cả nước chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.

            Một câu chuyện vui về bắt giặc lái Mỹ do chính giáo sư Nguyễn Bác Văn giảng viên Khoa Toán kể lại “ Vào hồi gần 14 h ngày 27 tháng 10 năm 1972,  lúc đang ngồi giặt ở bờ mương đồi Sỏi, Hiệp Ḥa, tôi chợt thấy một máy bay bốc cháy vụt qua và một phi công nhảy dù ra. Tôi vội chạy vào thềm nhà, lấy khẩu súng trường của anh dân quân dựng ở tường, liền cầm lấy và lao ra chỗ đám đông cách đó. Mọi người đă bắt được phi công Mỹ, tôi giương súng nói lớn “hands up”, phi công tái mặt và giơ tay lên. Sau đó tôi đi vào trong nhà gần đó hỏi cung tên phi công. Trước hết hỏi “What ís your name?”, phi công trả lời và viết vào mảnh giấy “Ward” (sau lúc đó bác chủ nhà cho xem tấm card bắt đựoc, tôi đọc thấy Brayen Warrd, đó là tên người phi công). Câu thứ hai tôi hỏi “how old are you”; trả lời “twenty four’. Tiếp đó, “from what aeroport?”;  trả lời Udon” (một sân bay quân sự ở Thái lan),v.v. Không hỏi nhiều , v́ dân quân phải dẫn tù binh lên huyện đội.

            Những điều xúc động ḷng người nhất là tin sinh viên trường ĐHTH nói chung và sinh viên Khoa Toán – Cơ nói riêng lên đường đánh Mỹ và chiến đấu rất anh dũng, một số đă hy sinh trong quá tŕnh bảo vệ thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Điều đó thôi thúc mọi người dù khó khăn gian khổ đến mấy cũng quyết tâm dạy tốt học tốt.

Có thể khảng định rằng hầu hết sinh viên tốt nghiệp Khoa Toán – Cơ trong những năm tháng đầy gian khó này đều đảm bảo chất lượng cả đức lẫn tài và phát huy tác dụng tốt trong xă hội.

            Trong thời gian này Khoa Toán - Cơ cùng với toàn trường thực hiện việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế và sự nghiệp quốc pḥng.

            Trong đợt sơ tán lần 2, Thủ tướng Chính phủ đă có chỉ thị 222-TTG về tổ chức, nhiệm vụ của giáo dục Đại học, THCN trong thời chiến. Cùng với toàn trường, Khoa Toán – Cơ đă thực hiện một cách tích cực và sáng tạo chỉ thị này. Các đề tài nổ ḿn định hướng, cầu giây, cầu phao, nhà giây…cùng các đề tài nhằm giảm thiệt hại cho lũ lụt, thiên tai đảm bảo giao thông thông suốt phục vụ quốc pḥng của các bộ môn Cơ học, phương pháp tính, hàm phức… đă đưa lại những kết quả ứng dụng thiết thực được xă hội ghi nhận, cấp trên khen thưởng. Hội nghị sơ kết thực hiện chỉ thị 222-TTG của nhà trường tổ chức tại 19 Lê Thánh Tông đầu năm 1973. Tham dự hội nghị, Bộ trưởng Tạ Quang Bửu đă đánh giá cao hoạt động của thầy tṛ Khoa Toán – Cơ.

            Một nét mới trong thời kỳ này là sự kết hợp các Khoa giải quyết cùng 1 vấn đề. Công tŕnh A318 (Bộ Vật tư) là công sức của tập thể nhiều ngành: Đàn hồi, phương pháp tính, máy tính, vô tuyến, vật lư chất rắn… cùng phối hợp để phục vụ cho xí nghiệp N.3 (Bộ Quốc pḥng).

            Từ năm 1971, theo chủ trương nâng cao chất lượng các cán bộ được cử đi nghiên cứu sinh nước ngoài, Bộ trưởng cho tổ chức các kỳ thi tuyển NCS. Nhiều cán bộ của Khoa Toán – Cơ được làm Trưởng các tiểu ban thi NCS (gồm các môn Toán cơ sở và nhiều môn chuyên ngành khác). Từ đó hàng năm các kỳ ôn tập, thi tuyển sau Đại học đă trở thành nền nếp. Nhiều cán bộ giảng dạy Khoa Toán – Cơ được cử đi thi đă đạt điểm cao nhất trong các kỳ thi này, về sau trở thành các nhà khoa học đầu đàn. Chủ trương thi tuyển đại học và công khai điểm thi cũng như tuyển sinh NCS đẫ tạo nên một không khí lành mạnh đồng thời góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Các cán bộ Khoa Toán – Cơ đă tích cực thực hiện chủ trương này.

            Năm 1974 , Khoa Toán –Cơ đă báo cáo với lănh đạo nhà trường sau đó trực tiếp báo cáo với Bộ trưởng Tạ Quang Bửu xin phép để thầy Hoàng Hữu Đường được bảo vệ luận án (P)TS. Được sự cho phép của Bộ, Khoa đă tổ chức để thầy Đường bảo vệ luận án theo thủ tục, quy tŕnh được Bộ duyệt, đây cũng là luận án trên Đại học đầu tiên được bảo vệ trong nước. Người thứ hai bảo vệ luận án (P)TS trong nước là thầy Nguyễn Thừa Hợp. Việc bảo vệ thành công 2 luận án đầu tiên này ở trong nước đă mở đầu cho việc chính thức tổ chức bảo vệ Tiến sỹ ở nước ta. Luận án thứ 3 là về Toán (Phương pháp tính) của thầy Tạ văn Đĩnh ở trường ĐH Bách Khoa. Sau này cũng chính thầy Hoàng Hữu Đường là người đầu tiên bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ Khoa học trong nước.

            Trong những năm 1970 – 1974 là giai đoạn nhiều giáo tŕnh và sách chuyên khảo được biên soạn, dịch và được NXB ĐH và THCN, NXB Khoa học và Kỹ thuật ấn hành.

            Năm 1971, Khoa Toán – Cơ tổ chức đào tạo khóa đầu tiên theo chương tŕnh 5 năm, các thầy giáo Nguyễn Hữu Việt Hưng, Đặng Hùng Thắng cùng tốt nghiệp khóa này và sau này đều trở thành các GS.TSKH.

            Số lượng cán bộ và chất lượng được tăng lên vượt bậc trong giai đoạn này, Khoa Toán – Cơ đón thêm nhiều cán bộ đồng thời cũng cử đi NCS, không ít cán bộ trúng tuyển cao qua các kỳ thi NCS, một số Thầy, Cô được bổ sung từ các khóa 11 – 14 của Khoa, một số khác được đào tạo từ nước ngoài vê.

            Năm 1970 – Các Thầy Mai Thúc Ngỗi, Ngô Thành Phong tốt nghiệp TS từ Liên Xô về. Các Thầy Đỗ Đức Giáo, Lê Tiến Tam, Phan Xuân Vỹ, Trần Hữu Dực, Nguyễn Hàm Giá, Trịnh Đ́nh An…(Khóa 11) ở lại công tác tại Khoa sau khi tốt nghiệp.

            Năm 1971, Thầy Trần Huy Hổ tốt nghiệp PTS từ Liên Xô về, Thầy Hồ Sỹ Đàm cũng từ Liên Xô về, các thầy, cô: Trần Văn Nhung, Phạm Thị Oanh, Hà Công Khanh, Đặng Đ́nh Châu, Nguyễn Văn Xuất.. tốt nghiệp khóa 12 ở lại công tác tại Khoa.

            Qua năm 1972, Khoa đón các thầy, cô: Phạm Kỳ Anh, Nguyễn Ngọc Thắng, Trần Thị Lệ từ Liên Xô. Thầy Nguyễn Văn Vinh từ Tiệp Khắc về; Từ khóa 13 (1968 – 1972) có các thầy, cô: Phạm Trọng Quát, Nguyễn Đ́nh Hóa, Đỗ Văn Hà, Nguyễn Xuân Triểu, Nguyễn Viết Triều Tiên, Lê Văn Tâm, Trần Văn Cúc,… trong các năm 1973 – 1974 một lực lượng hùng hậu các Thầy, Cô: Nguyễn Văn Mậu, Nguyễn Văn Xoa, Trần Thị Đệ, Trần Hữu Phúc, Nguyễn Đ́nh Dũng, Nguyễn Hữu Công, Nguyễn Đức Đạt, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Xuân Huy, Thái Bá Cẩn, Trần Lập, Phạm Đăng Long, Hoàng Minh Chương, Đỗ Văn Thành, Lương Thế Dũng …từ nước ngoài về. Các thầy Hoàng Chí Thành,  Nguyễn Nam Hải, Nguyễn Công Hợp tốt nghiệp tại Khoa được bổ sung thêm cho đội ngũ cán bộ của Khoa. Các Thầy được Khoa cử đi NCS đến hẹn cũng lần lượt trở về Khoa.Chỉ trong một thời gian hơn 5 năm chúng ta đă đón nhận mới và trở về của hơn 60 Thầy, Cô giáo và cũng tiễn hàng chục cán bộ vào quân đội. Nhờ chất lượng, số lượng của đội ngũ các Thầy, Cô của Khoa được tăng lên đáng kể nên chất lượng đào tạo cũng được nâng lên nhiều chất lượng của các cán bộ được cử đi NCS, chất lượng của sinh viên tốt nghiệp.

            Về khối chuyên toán

                Khối học sinh chuyên toán sau khi h́nh thành và hoạt động được hơn 4 năm (1966 – 1970) th́ từ năm 1970 được sự chỉ đạo của nhà trường Khoa Toán – Cơ đă lựa chọn những giáo viên giỏi ở các môn nằm trong chương tŕnh giảng dạy ở bậc phổ thông cùng với các giáo viên đă từng dạy của khối và lâp nên bộ môn chuyên toán đầu tiên do PGS. Lê Đ́nh Thịnh làm chủ nhiệm trực thuộc Khoa Toán Cơ. Lúc này các giáo viên cơ hữu ban đầu của bộ môn này gồm: Phạm Văn Điều, Đặng Thị Thanh Hoa, Nguyễn Thị Tính, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Trần Thùy, Dương Hoàng Giang, Lê Văn Việt, Lê Đ́nh Vinh… C̣n một số thầy khác của Khoa Toán Cơ được thực hiện theo chế độ mời giảng. Trong những năm đầu 70 của thế kỷ trước Khoa tiếp tục lựa chọn những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ngành toán, lư ở trong và ngoài nước bổ sung cho đội ngủ giáo viên của bộ môn như Nguyễn Văn Mậu, Phạm Đăng Long, Nguyễn Xuân Khang và sau đó chậm hơn một số năm là Phạm Văn Hùng và Đỗ Thanh Sơn.

            Với việc giảng dạy ở khối chuyên khâu bồi dưỡng đào tạo học sinh năng khiếu mới là then chốt, khẳng định đẳng cấp của một trường chuyên. Chương tŕnh dạy phải phụ chương tŕnh của Bộ Giáo dục, mặt khác phải hệ thống hóa kiến thức và giúp cho học sinh những công cụ hữu hiệu để giải những dạng toán khó, phải rèn cho học sinh tư duy logic, tưu duy thuật toán và có khả năng tự học cao.

            Khoa Toán Cơ đại học THHN đă được chuẩn bị như thế để đón bước phát triển mới của nền giáo dục đại học khi đất nước thông nhất sau đại thắng mùa xuân 1975.

*

*             *             *

            Năm 1975 chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đă kết thúc với thắng lợi vĩ đại. Non sông thu về một mối, cả nước thống nhất. Tổ quốc bước sang một trang sử mới.

            Khoa Toán – Cơ bước vào năm học 1975- 1976 với một không khí phấn khởi mới mà nét nổi bật là mọi người suy nghĩ cần phải có bước chuyển cho phù hợp với t́nh h́nh mới.

            Là một đơn vị đầu đàn trong đào tạo cán bộ ngành Toán của cả nước khi đất nước đă thống nhất. Nhiệm vụ mới xuất hiện trước tiên là Khoa cần hỗ trợ cán bộ khoa học cũng như giúp đỡ về nhiều mặt cho các đơn vị đào tạo liên quan đến ngành Toán ở các tỉnh mới giải phóng thời gian bấy giờ, nhất là các đơn vị có nhu cầu giảng dạy Toán ở bậc đại học và sau đại học.

            Để chi viện cán bộ cho các Viện, trường ở Sài G̣n có các thầy cô t́nh nguyện: thầy Nguyễn Bác Văn, Ngô Thành Phong, Nguyễn Ngọc Quyên, Trần Thị Lệ, Bùi Thụy Anh, Đoàn Ái Thơ. Ở Huế có thầy Nguyễn Đống. Ở Đà Nẵng có thầy Nguyễn Hữu Thành . Ở Tây Nguyên có thầy Trần Lập.

            Khoa c̣n cử các thầy Phạm Huyễn, Nguyễn Văn Hữu, Hoàng Quốc Toàn, Đào Huy Bích…biệt phái giảng dạy ở một số trường đại học vừa mới tiếp quản trong những năm mới giải phóng.

            Tháng 4/1976 Khoa cử một đoàn tham gia cùng với trường làm việc trong một tháng về nội dung chương tŕnh giảng dạy cùng khoa Toán Đại học Khoa học Sài G̣n, tiếp các năm sau với Đại học Huế và Đại học Tây Nguyên.

            Khoa c̣n cùng với trường cử cán bộ có kinh nghiệm vào giúp các trường phía Nam lập kế hoạch đào tạo và xây dựng chương tŕnh giảng dạy.

Tất cả các tập thể và cá nhân được cử đi công tác miền nam nói trên đều hoàn thành tốt nhiệm vụ.

            Khoa Toán – Cơ cũng đă làm việc với nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp dưới sự chủ tŕ của Bộ trưởng Tạ Quang Bửu về việc in các giáo trinh do các cán bộ của khoa Toán – Cơ biên soạn để các trường Đại học ở phía Nam sử dụng.

            Bằng những việc làm thiết thực, Khoa Toán – Cơ đă phát huy vai tṛ của ḿnh trong sự nghiệp phát triển các đơn vị đào tạo cán bộ ngành Toán ở các tỉnh phía nam giúp cho các đơn vị này mau chóng ổn định và trở thành một bộ phận hữu cơ trong hệ thống đào tạo cán bộ ngành Toán của cả nước.

            Về qui mô đào tạo

            Trong các năm học từ 1975 – 1977 Khoa vẫn giữ quy mô mỗi năm tuyển khoảng 200 sinh viên Toán và Cơ. Như vậy hàng năm Khoa có tổng số sinh viên khoảng 800 được đào tạo trong 4 năm và bắt đầu thực hiện một số được đào tạo 5 năm. Ngoài ra c̣n có việc đào tạo hộ một số cán bộ một số ngành Toán mà do các trường khác gửi tiếp tục hệ chuyên tu của giai đoạn trước.

            Một nhiệm vụ mới rất có ư nghĩa của Khoa trong giai đọan này là mở rộng ṿng tay chào đón những sinh viên đă t́nh nguyện lên đường đánh Mỹ  và nay chiến thắng trở về trường tiếp tục học những năm học dang dở. Khoa đă bố trí xếp họ vào lớp, giúp họ ôn tập bù đắp thời kỳ gián đoạn. Phát huy bản lĩnh của người lính đă qua trực tiếp chiến đấu, các sinh viên này là cựu chiến binh này đă tích cực học tập nghiên cứu và nhiều người tốt nghiệp với kết quả học tập xuất sắc và được giữ lại trường làm giảng viên hoặc được mời về các Viện nghiên cứu như các anh Nguyễn Hữu Dư, Hoàng Xuân Huấn, Phạm Văn Hùng, Vũ Ngọc Loăn, Nguyễn Vũ Lương, Lê Đức Minh, Đỗ Thanh Sơn, Hà Quang Thụy…         

            Ngoài ra phải nói đến nhiệm vụ đào tạo năm cuối với một số cựu sinh viên của trường đă tốt nghiệp hệ 3 năm nay trở về trường học chương tŕnh năm thứ 4 để được công nhận tốt nghiệp hệ 4 năm.

            Năm 1982 UBKHNN chủ trương không phân chỉ tiêu tuyển sinh cho trường ĐHTH trong đó có Khoa Toán – Cơ. Trường và Khoa đă t́m mọi cách để chứng minh rằng nhu cầu đào tạo của Trường và của Khoa vẫn đang có và đă thành công.

            Năm 1977 nhằm giúp các cơ quan đoàn thể nâng cao tŕnh độ khoa học cơ bản cho cán bộ của ḿnh Khoa Tại chức của trường ra đời và cũng từ đây Khoa đảm nhiệm thêm việc giảng dạy các lớp tại chức.

            Năm học 1978 – 1979 Khoa đă gắn hoạt động thực tế của thầy và tṛ với những đ̣i hỏi cấp bách của đất nước. Khoa đă đóng góp hàng ngàn công trong việc xây dựng pḥng tuyến sông Cầu, pḥng tuyến bảo vệ Thủ đô trong chiến tranh biên giới.

            Đầu năm học 1979 – 1980 Khoa bắt đầu thực hiện cải cách giáo dục theo chủ trương cải cách giáo dục của nhà nước chủ yếu tập trung vào mục tiêu đào tạo, học gắn liền với hành giáo dục chính trị tư tưởng, phương pháp, h́nh thức đào tạo và lao động sản xuất.

            Việc xây dựng đội ngũ được đặt lên hàng đầu. trong sự biến động của đội ngũ do nhu cầu cán bộ ngành Toán của đất nước cộng với nhiều nhiệm vụ mới xuất hiện Khoa đă sắp xếp đội ngũ một cách hợp lư và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ nhiều năm sau đất nước thống nhất. Các năm 1976, 1977 Khoa đă chọn 2 sinh viên tốt nghiệp xuất sắc là Nguyễn Hữu Việt Hưng và Đặng Hùng Thắng giữ lại làm giảng viên của Khoa và sau này họ đều là những GSTSKH và đă phát huy tác dụng tốt.

            Năm 1976 trường ĐHTH Hà Nội long trọng kỷ niệm 20 năm thành lập trường cũng là 20 năm thành lập Khoa Toán – Cơ.

            Đất nước thống nhất, uy tín quốc tế của nhà nước được nâng cao. Với tiềm năng của đội ngũ cán bộ khoa học của ḿnh Khoa Toán – Cơ vững tin vào hợp tác quốc tế, cùng với việc tiếp tục hợp tác với các trường, viện trên thế giới đă kư kết; Khoa đă mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế thêm các trường Lomonoxop. Humboldt, Lodz, Pari, Amsterdam..

            Cuối những năm 60 và đầu những năm 70 của thế kỷ 20, một số giáo sư Toán học nổi tiếng thế giới đă đến đọc bài giảng tại Khoa như Grothendics, Malgange, Fédric Phạm, Lê Dũng Tráng…          Và chính họ trực tiếp hướng dẫn để đào tạo một số tiến sỹ toán cho Khoa và Viện Toán.

           

          Về mặt nghiên cứu khoa học

            Trong giai đoạn này là sự kết hợp thành công giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo. Trước hết là khoa đă tổ chức cho 3 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án  (P)TS ngành Toán và đón nhận những NCS mới.

            Tiếp tục thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng cán bộ được cử đi NCS nước ngoài của Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, nhiều cán bộ Khoa Toán – Cơ tiếp tục được cử làm trưởng các tiểu ban thi NCS. Nhiều cán bộ giảng dạy của Khoa được cử đi thi đă đạt điểm cao nhất trong các kỳ thi này.

            Việc sinh hoạt đều đặn các seminar bộ môn và liên cơ quan đă hỗ trợ rất lớn cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học cũng như tự bồi dưỡng của giáo viên trong Khoa.

            Tiếp tục ứng dụng toán học như nổ ḿn định hướng, cầu dây, cầu phao, nhà dây…cùng các đề tài nhằm giảm nhẹ thiên tai, đảm bảo giao thông thông suốt của Khoa Toán – Cơ đă đem lại những kết quả ứng dụng thiết thực được xă hội ghi nhận.

            Năm 1981 Khoa Toán – Cơ bước vào năm học thứ 25 với một đội ngũ giáo viên ổn định và giàu năng lực. Năm 1977 GS Chủ nhiệm khoa Phan Văn Hạp được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng trường ĐHTH Hà Nội và kiêm nhiệm chủ nhiệm Khoa. Năm 1981 GS Hoàng Hữu Như được bổ nhiệm làm chủ nhiệm Khoa Toán – Cơ thay cho GS Phan Văn Hạp.

            Những năm học đầu của những năm 80 của thế kỷ trước t́nh thế hết sức khó khăn. Sự khủng hoảng về kinh tế - xă hội đă trực tiếp tác động đến các trường đại học nói chung và đến khoa Toán – Cơ nói riêng.

            Cơ quan quảu lư quan liêu bao cấp với nguồn kinh phí đào tạo do nhà nước cấp quá ít ỏi, đồng tiền mất giá liên tục, chỉ đủ để nhà trường trả lương cho cán bộ, học bổng cho sinh viên và một phần tiền điện nước. C̣n những hoạt động cấp thiết khác của nhà trường như biên soạn giáo tŕnh, đi thực tập thực tế, sửa chữa bổ sung trang thiết bị…hầu như không có kinh phí.

            Những chính sách bất hợp lư đối với cán bộ khoa học đă ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư t́nh cảm của đội ngũ cán bộ, không ít cán bộ buộc ḷng phải đi t́m việc khác để lo toan cho cuộc sống hàng ngày. Bầu không khí xă hội với nhiều hiện tượng tiêu cực, cuộc sống vật chất thấp kém, t́nh trạng không có việc làm sau khi ra trường đă làm cho phần đông sinh viên chán nản, không tích cực phấn đấu học tập.

             Trong bối cảnh đó lănh đạo cũng như cán bộ công nhân viên của Khoa đă không chùn bước. GS Chủ nhiệm khoa Hoàng Hữu Như lúc bấy giờ đă t́m mọi biện pháp để duy tŕ sự tồn tại của Khoa ḿnh mà trọng tâm là đảm bảo đời sống. Dùng các biện pháp phát huy chất xám như biên soạn và xuất bản sách hoặc liên kết với các đơn vị ngoài trường mở các lớp tại chức, thậm chí phải làm những việc phi chuyên môn như làm sơn, chế bột màu… nhằm cải thiện đời sống cho cán bộ Khoa.

            Một hướng khác vừa ích nước vừa lợi nhà trong việc giải quyết khó khăn về kinh tế trong giai đoạn này là đi chuyên gia giáo dục cho các nước bạn ở châu Phi; Điều quan trọng nhất lúc này là ngoại ngữ. Với vốn ngoại ngữ truyền thống là tiếng Nga, các thầy bây giờ lại chuyển sang sử dụng tiếp Pháp. Bằng năng lực và quyết tâm, gần bốn chục thầy giáo của Khoa đă được mời sang các nước ở châu Phi làm chuyên gia giáo dục với thời gian ít nhất là vài ba năm mỗi người. Có một số thầy tham gia hai nhiệm kỳ.

            Việc đi làm chuyên gia giáo dục không những có ư nghĩa về mặt ngoại giao, nâng cao uy tín của nhà nước ta trên trường quốc tế mà c̣n góp phần tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước trong khung cảnh kinh tế đất nước c̣n nhiều khó khăn.

            Với tiềm lực mạnh về trí tuệ nhiều người không bỏ phí thời gian mà tập trung nghiên cứu khoa học hoàn thành nhiều công tŕnh và đă công bố trên các tạp chí toán học có uy tín trên thế giới và trong nước.           

            Trong dịp tổng kết công tác nghiên cứu khoa học 5 năm (1981 – 1985), cụ thể là trong hội nghị khoa học kỷ niệm 30 năm thành lập trường từ ngày 9 – 10/10/1986 Khoa Toán - Cơ đă có 77 báo cáo và đăng ở Proceedings Of Confrence với 172 trang.

            Khoa Toán – Cơ c̣n là nơi phát hiện và nuôi dưỡng nhân tài đất nước. Trong các kỳ thi Toán Quốc tế nhiều học sinh chuyên Toán của Khoa đă đạt những giải thưởng lớn; tiêu biểu là anh Hoàng Lê Minh đạt huy chương vàng đầu tiên trong kỳ thi Olympic Toán Quốc tế tại Cộng ḥa dân chủ Đức. Anh Đàm Thanh Sơn đạt huy chương vàng tại Tiệp Khắc khi mới 15 tuổi. Anh Nguyễn Tiến Dũng đạt huy chương vàng tại Phần Lan khi mới 14 tuổi. Đặc biệt anh Ngô Bảo Châu đạt huy chương vàng 2 năm liên tiếp.

            Có thể nói rằng giai đoạn những năm 80 của thế kỷ trước Khoa Toán – Cơ đứng trước những khó khăn thử thách to lớn tưởng chừng khó có thể vượt qua. Chất lượng đào tạo được Khoa cố gắng duy tŕ nhưng không khỏi có phần giảm sút. Kế hoạch đào tạo không được giao tương xứng với khả năng và kinh phí được cấp quá ít ỏi. Bằng sự năng động và đức tính kiên tŕ vượt khó của cán bộ trong Khoa đă giúp Khoa Toán – Cơ đứng vững. Năm 1986 Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới, một vài năm sau nghị quyết đi vào cuộc sống, Khoa Toán – Cơ đă có nền tảng vững chắc cùng toàn trường ĐHTH cùng toàn xă hội bước vào công cuộc đổi mới đất nước.

*

*             *             *

Tháng 12 năm 1986 đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đă mở ra một giai đoạn đổi mới trong đời sống kinh tế - xă hội ở nước ta. Tư duy đổi mới đă trở thành cơ sở phương pháp luận giúp đội ngũ Cán bộ Công nhân viên của trường Đại học Tổng hợp nói chung và của Khoa Toán – Cơ nói riêng hiểu rơ chủ trương này và vận dụng vào công tác để t́m cách tháo gỡ khó khăn đổi mới nhà trường, đổi mới khoa.

            Việc đổi mới đầu tiên là đổi mới về đào tạo. Năm 1987 Khoa chính thức đổi tên thành Khoa Toán – Cơ – Tin học. Cũng từ năm đó Khoa thực hiện kế hoạch đào tạo 5 năm và cũng từ năm này nhà trường đă xuất bản toàn bộ chương tŕnh các môn học cơ sở của tất cả các khoa trong đó có Khoa Toán – Cơ – Tin học nhằm đưa công tác giảng dạy từng bước đi vào nề nếp theo một quy tŕnh chuẩn 5 năm.

            Về đào tạo chuyên ngành Tin học, có thể nói khoa Toán – Cơ – Tin học, trường Đại học Tổng hợp là nơi đầu tiên trong cả nước giảng dạy môn máy tính. Cụ thể là từ 1966, thầy Nguyễn Bá Hào đă dạy môn học máy tính và lập tŕnh cho sinh viên. Từ năm 1967 Khoa bắt đầu mở chuyên ngành Máy tính. Khoá 8 là Khoá có cử nhân máy tính đầu tiên. Từ đó hàng năm Khoa đều mở chuyên ngành Tin học (ban đầu gọi là chuyên ngành Máy tính). Có năm chỉ riêng hệ chính quy đă có tới hàng trăm sinh viên theo học chuyên ngành này.

            Dự kiến Khoa Công nghệ Thông tin sẽ được thành lập, việc đào tạo chuyên ngành Tin học hệ chính quy sẽ được chuyển sang Khoa Công nghệ Thông tin. Trước t́nh h́nh đó, Khoa Toán – Cơ đă chủ động đề xuất mở chuyên ngành Toán – Tin ứng dụng vào năm 1993 và sau 3 năm đào tạo thí điểm, năm 1996 đă được Bộ Giáo dục và Đào tạo duyệt làm mă ngành đào tạo chính thức. Cần nói thêm rằng những năm đầu của những năm chín mươi của thế kỷ trước, sinh viên theo học ngành Toán rất hiếm hoi. Khoá 35 chỉ có 5 sinh viên, khoá 36 chỉ có 4 sinh viên và khoá 37 chỉ có 1 sinh viên theo học ngành Toán. Tuy số lượng sinh viên ít nhưng Khoa Toán – Cơ – Tin học vẫn duy tŕ đào tạo ngành Toán và kết quả những sinh viên tuy ít ỏi này đều rất giỏi, như Phan Thị Hà Dương, Lê Minh Hà, Phó Đức Tài, Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Quang Diệu, Hoàng Việt Hà, Hà Huy Tài…đều có thành công bước đầu và đang tiến xa hơn. Chứng tỏ Khoa vẫn tổ chức đào tạo chu đáo dù ít học sinh.

            Lại nói về tổ chức nhân sự, khi qui mô con số đă được xác định th́ việc đầu tiên là sắp xếp tổ chức nhân sự. Sau gần chục năm con số của khoa chỉ có giảm do chuyển công tác, do đi chuyên gia, do nghỉ hưu… trong khi đó không nhận thêm biên chế mới nào.

            Trong t́nh h́nh đó cuối năm 1989, một bộ phận của Khoa được điều động sang xây dựng Viện Tin học Điện tử trực thuộc trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tiếp đến năm 1995, Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập th́ lại thêm một số cán bộ được cử sang công tác ở Khoa Công nghệ Thông tin là một đơn vị mới được thành lập. Có thể nói là từ một trong những đơn vị có lực lượng Toán, Cơ, Tin học mạnh nhất toàn quốc, sau nhiều lần bị điều động cán bộ, Bộ môn Tin học của Khoa chỉ c̣n lại một số cán bộ ṇng cốt là GS.TS. Đặng Huy Ruận, PGS.TS. Nguyễn Hữu Ngự, PGS.TS. Hoàng Chí Thành, TS. Nguyễn Thị Minh Huyền, PGS.TS. Trần Thọ Châu.  Khoa phải xây dựng lại đội ngũ cán bộ Tin học. V́ vậy ban lănh đạo Khoa và Bộ môn Tin học đă rất cố gắng t́m nguồn bổ sung nên lực lượng Tin học được phục hồi nhanh chóng và ngày càng tiến bộ về số lượng lẫn chất lượng đáp ứng được yêu cầu về công tác đạo tạo và nghiên cứu khoa học. Từ các cán bộ ṇng cốt nói trên, Khoa đă bổ sung thêm PGS. TS. Đỗ Trung Tuấn,  PGS.TS. Lê Trọng Vĩnh, TS. Lê Hồng Phương, TS. Nguyễn Hải Vinh, TS. Nguyễn Thị Bích Thủy, TS. Đỗ Thanh Hà, TS Vũ Tiến Dũng, TS. Bùi Vũ Anh, Thầy Hoàng Quốc Hùng và nhiều cán bộ trẻ.

            Ngoài việc xây dựng lực lượng nói trên, Khoa c̣n có một nhiệm vụ nặng nề là xây dựng chương tŕnh giảng dạy cho ngành Toán-Tin ứng dụng vừa đảm bảo chất lượng đào tạo, vừa đáp ứng yêu cầu của xă hội đối với sinh viên tốt nghiệp ngành này. Điều đó cũng đảm bảo sự tồn tại của ngành Tin học trong Khoa. Đồng thời bác bỏ một số ư kiến là Khoa không nên đào tạo ngành Tin mà chỉ tập trung đào tạo các ngành Toán học, Cơ học. Cũng từ đó hàng năm Khoa tuyển sinh đủ 3 ngành Toán, Cơ và Tin học với số lượng toàn khoá khoảng 1000 người.

            Song song với việc cải tiến chương tŕnh, nội dung đào tạo hệ chính quy, khoa tiếp tục duy tŕ mở rộng các h́nh thức đào tạo khác. Thực hiện chủ trương của nhà trường, Khoa đă mở hệ đào tạo không chính quy. Hệ này trong nhiều năm thu hút học sinh theo học và được xă hội hoan nghênh.

            Từ 1989, chương tŕnh đào tạo được đổi mới sang thực hiện đ̣a tạo theo 2 giai đoạn. Khoa đă cử những cán bộ có chuyên môn vững, có kinh nghiệm đào tạo tham gia xác định danh mục ngành học, xây dựng khung chương tŕnh môn Toán cho các ngành học trong giai đoạn I và chương tŕnh đào tạo, nội dung phương thức đào tạo giai đoạn II của Khoa Toán – Cơ – Tin học.

            Về bộ máy lănh đạo Khoa cũng có nhiều biến động, GS.TS Hoàng Hữu Như làm chủ nhiệm Khoa trong giai đoạn khó khăn nhất 1982 – 1991. Tháng 2/1988 nhà trường tổ chức bầu hiệu trưởng mới, PGS.TS Nguyễn An trúng cử Hiệu trưởng. Thực hiện chế độ bầu cử, năm 1991 Khoa đă bầu GS.Trần Văn Nhung thay GS.Hoàng Hữu Như hết nhiệm kỳ. Năm 1992, GS.Trần Văn Nhung được cử làm Phó hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lúc này GS. Đào Trọng Thi đă được cử làm Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ đầu năm 1992. Năm 1992 Khoa cử GS. Nguyễn Duy Tiến làm Chủ nhiệm Khoa. Năm 1993 GS. Nguyễn Duy Tiến đi công tác nước ngoài dài hạn, Khoa cử PGS. Phạm Trọng Quát làm Chủ nhiệm Khoa. Năm 1995, PGS. Phạm Trọng Quát được điều động làm Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Đại học Quốc gia Hà Nội và GS.Đặng Huy Ruận được cử làm Chủ nhiệm Khoa từ 1995.

            Về mặt tổ chức, trong giai đoạn này Khoa có 8 bộ môn: Đại số – H́nh học – Tô pô, Giải tích, Xác suất - Thống kê, Toán học tính toán và Toán ứng dụng, Toán sinh thái và môi trường, Tin học, Cơ học và khối phổ thông chuyên Toán – Tin.

            Để tiếp tục phát huy tiềm năng sẵn có đồng thời góp phần giải quyết khó khăn về đời sống, Chủ nhiệm Khoa GS.Đặng Huy Ruận đă tổ chức liên kết với 26 đơn vị và địa phương như: Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn, Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, Cao đẳng Sư phạm Hà Tây, Đại học Sư phạm Vinh, Quảng Ninh, Hải Dương, Tuyên Quang, Bắc Giang, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng B́nh, Lạng Sơn, Hải Pḥng, Nam Định, Thái B́nh, Vĩnh Phú, Đà Nẵng,… để mở các lớp chuyên cử nhân Toán – Tin ứng dụng và Cao đẳng Tin học. Qua liên kết này Khoa đă cùng các đơn vị bạn đào tạo được nhiều cán bộ có tŕnh độ Tin học nhất định đáp ứng yêu cầu phổ cập cấp bách về Tin học, một ngành mới bắt đầu phát triển nhưng có sức thu hút kỳ điệu.

            Song song với việc đào tạo chính quy các ngành Toán học, Toán Cơ, Toán Tin ứng dụng và Sư phạm Toán học (3 năm đầu sinh viên học tại khoa Toán – Cơ – Tin học, năm cuối chuyển về Trường Đại học Giáo dục). Khoa c̣n trực tiếp phụ trách việc giảng dạy và tham gia quản lư hệ cử nhân Khoa học Tài năng ngành Toán học và Toán cơ (bắt đầu năm 19…). Phần lớn sinh viên học ở khoá đầu tiên khi tốt nghiệp đă được cấp học bổng để tiếp tục học tập ở nước ngoài. Rất nhiều người đă bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, trở thành giảng viên, nghiên cứu viên, hay thực tập sau tiến sĩ ở các trường đại học và viện nghiên cứu trong và ngoài nước, ví dụ như Nguyễn Ngọc Hưng, Vơ Thị Như Quỳnh, Hà Thị Ngọc Yến, Nguyễn Phương Chi, Hà Minh Lam (K1). Nguyễn Thịnh, Đặng Anh Tuấn, Nguyễn Lưu Sơn, Phạm Văn Quốc, Trần Thanh Tuấn, Bùi Thanh Tú (K2). Đoàn Trung Hiếu, Hoàng Mạnh Quang (K3). Đào Phương Bắc (K4). Nguyễn Tất Thắng (K5). Đoàn Thái Sơn (K6), Lưu Hoàng Đức (K6)..v.v.

            Về khối chuyên Toán, buớc sang thời kỳ đổi mới, Khối đuợc mở rộng quy mô đào tạo, đuợc phép mở thêm hệ B, hệ này không sử dụng ngân sách nhà nuớc mà dùng phương thức xă hội hóa. Song song với mở rộng quy mô đào tạo là việc tăng cường đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Khối đă được trang bị thêm 7 pḥng học mới khang trang và 2 pḥng máy tính. Cũng trong thời gian này, Khối đă được bổ sung nhiều thầy cô có năng lực từ đội ngũ giảng viên của Khoa Toán – Cơ, từ các cơ quan khác, từ nguồn sinh viên tốt nghiệp về làm giáo viên cơ hữu của Khối như các thầy: Phạm Quang Đức, Phan Cung Đức, Nguyễn Vũ Lưong, Nguyễn Văn Xoa, Đỗ Văn Hà, Nguyễn Cảnh Ḥe, Nguyễn Thị Phương Ḥe, Phạm Văn Quốc.

            Các giáo viên của Khối vừa giảng dạy các lớp của chuyên Toán, vừa giảng dạy các chuyên đề bồi dưỡng Toán  Sơ cấp cho các giáo viên các tỉnh thành khác như: TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Hải Pḥng, Hải Dương… Một số giáo viên vừa làm việc vừa tham gia nghiên cứu sinh và đă bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ như: TS. Nguyễn Vũ Lương, TS. Nguyễn Thành Văn.

           

            Thời kỳ này, Khối được bổ sung thêm nhiều thầy cô trẻ như các thầy: Nguyễn Thành Văn, Phạm Văn Quốc, Nguyễn Lưu Sơn, Phạm Huy Tùng, Hoàng Ngọc Minh, Trần Quang Hùng, Phạm Huy Thông, Lê Mạnh Hà và các cô giáo: Nguyễn Thu Giang, Trần Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Bằng Nga, Nguyễn Thị Thùy Linh, Nguyễn Vũ Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Yến và Đoàn Thị Yến.

            Trước sự phát triển mạnh mẽ của nghành Công nghệ thông tin và để phát hiện bồi duỡng các học sinh có năng khiếu về Tin học, Khối đă mở các lớp chuyên Tin học năm 1993. V́ thế từ năm 1993 tại Khoa Toán – Cơ – Tin học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Khối chuyên Toán – Tin đuợc h́nh thành, đây là sự kết thừa các truyền thống của Khối chuyên Toán và sự phát triển theo xu hướng tất yếu của xă hội. Ngay những ngày thành lập các lớp chuyên Tin học đă nhận đuợc sự cộng tác rất nhiệt t́nh của nhiều thầy cô giáo ở Khoa Toán – Cơ – Tin học (Truờng Đại học Khoa học Tự nhiên), Khoa Công nghệ thông tin (Truờng Đại học Bách khoa Hà Nội), Khoa Công nghệ thông tin (Học viên Kỹ thuật Quân sự). Đặc biệt sự thành công của các lớp chuyên Tin học có sự đóng góp đáng kể của TS. Nguyễn Xuân My (về Khối công tác từ năm 1995), người đă có nhiều năm là Truởng đoàn đưa đội tuyển Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic Tin học quốc tế.

            Từ năm 1991 đến 2010 học sinh chuyên Toán, chuyên Tin của Khối đă mang về cho đất nước 71 Huy chương các loại tại kỳ thi Olympic Toán học quốc tế (19 Huy chương Vàng, 20 Huy chương Bạc và 7 Huy chương Đồng), Olympic Tin học quốc tế (3 Huy chương Vàng, 9 Huy chương Bạc và 13 Huy chương Đồng).

            Cần nhấn mạnh rằng, đội ngũ các thầy được mời thỉnh giảng cho học sinh Khối chuyên, nhất là cho đội tuyển là khá đông và không thể liệt kê đầy đủ, nhưng những ǵ họ đă làm thực sự biểu hiện một tấm ḷng quư giá giành cho việc đào tạo nhân tài đất nước, giành cho sự phát triển Toán học và Tin học.

            Phải nói rằng, trước hết là nhờ năng khiếu học sinh, nhờ đào tạo cơ bản của các thầy Khối chuyên, những tấm Huy chương quốc tế c̣n có công rất lớn của các thầy đuợc mời thỉnh giảng như thầy Phan Đức Chính, Lê Đ́nh Thịnh, Nguyễn Minh Đức, Nguyễn Đăng Phất, Nguyễn Khắc Minh, Đặng Hùng Thắng, Ngô Việt Trung, Hà Huy Khoái, Nguyễn Quốc Thắng, Vũ Đ́nh Ḥa,…Cũng như các thầy luyện đội tuyển Tin học, như Hồ Sĩ Đàm, Nguyễn Việt Hà, Bùi Thế Duy, Hồ Đắc Phương, Nguyễn Xuân Huy…

            Tính đến năm 1996 Khối chuyên toán đă tṛn 30 tuổi. Với nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng các tài năng tóa học, thời gian 30 năm cũng đủ để thấy được nhiệm vụ này của Khoa Toán – Cơ – Tin học và Khối chuyên Toán đă thành công đến mức nào.

            Trước hết được đào tạo qua khối chuyên Toán, ngày nay chúng ta có được những nhà Toán học xuất sắc tầm cở thế giới như Ngô Bảo Châu người đă được giải thưởng Clay của viện Toán học Clay ở Boston và được giải thưởng Fields, GS Đàm Thanh Sơn, GS Nguyễn Tiến Dũng, …

            Kế đó là những nhà Toán học đầu ngành của Việt Nam và có uy tín trên thế giới được đào tạo từ khối chuyên Toán. Những người có nhiều đóng góp cho khoa học hoặc cho công tác quản lư phải kể đến GS Đào Trọng Thi, GS Trần Văn Nhung, GS Phùng Hồ Hải, GS Hoàng Lê Minh.

            Điều đáng lưu ư là những cựu học sinh của khối chuyên Toán sau khi tốt nghiệp khối chuyên mà vẫn tiếp tục theo ngành Toán th́ họ đều có ư thức phấn đấu v́ sự nghiệp toán học nên đa số trong họ đạt mức phấn đấu là Tiến sĩ.

            Một số theo yêu cầu của tổ chức đă chuyển sang nghiên cứu học tập tại các ngành khoa học khác cũng đều phát huy tác dụng trong ngành nghề mới của ḿnh.

            Về công tác bồi dưỡng tŕnh độ và nghiên cứu khoa học

            Các Xêmina Đại số –  H́nh học – Tô pô, Giải tích, Phương tŕnh vi phân, Cơ học, Toán ứng dụng, Xác suất – Thống kê, Tin học, Phương pháp toán sơ cấp… đă sinh hoạt đều đặn và hỗ trợ rất nhiều cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo NCS và tự bồi dưỡng của giảng viên trong Khoa.

            Khi cánh cửa đào tạo ở nước ngoài khép lại, không ít cán bộ trong Khoa với tinh thần tự lực, lớp trước giúp đỡ lớp sau đă tự đào tạo trên đại học ngay trong nước. Khoa Toán – Cơ – Tin học tự hào là một trong những cơ sở khoa học đầu tiên được giao nhiệm vụ đào tạo trên đại học. Đă có 92 cán bộ, nghiên cứu sinh của Khoa bảo vệ thành công luận án tiến sĩ trong nước, ngoài ra có hàng trăm học viên cao học của Khoa cũng tốt nghiệp trong giai đoạn này.

            Khoa đă đẩy mạnh nghiên cứu khoa học tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế. Đă h́nh thành những nhóm nghiên cứu mạnh về Tô pô Đại số, Phương tŕnh vi phân, Giải tích số, Xác suất -Thống kê, Cơ học… với nhiều công tŕnh được công bố ở các tạp chí quốc tế có uy tín cao.

Hội nghị Khoa học năm 1988 – 1989 vào ngày 10 – 11/3/89, có 73 báo cáo.

Hội nghị Khoa học năm 1993 – 1994 vào năm 1994, có 69 báo cáo  (Tuyển tập công tŕnh 270 trang)

Hội nghị Khoa học kỷ niệm 40 năm thành lập trường vào 31/10/1996, có 95 báo cáo khoa học và được giới thiệu trong cuốn Tóm tắt báo cáo (gồm 46 trang).

            Lănh đạo Khoa trong thời kỳ này c̣n t́m kiếm các hợp tác Quốc tế mở rộng ra ngoài khối Xă hội Chủ nghĩa như: Australia, Italia, Hà Lan… đặc biệt: hợp tác VH25 đă tạo điều kiện cho nhiều cán bộ của Khoa đi trao đổi khoa học ở nước ngoài.

          Đến đây xin giới thiệu thêm về đề tài VH25:

Đề tài bắt đầu hoạt động với sự tài trợ của phía Hà Lan từ năm 1982 và chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 1982 đến 1987, Giai đoạn 2 từ 1987 đến 1995. Chủ tŕ đề tài về phía Việt Nam là GS.PTS Hoàng Hữu Như, Khoa Toán – Cơ – Tin học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Về phía Hà Lan lần lượt các nhà khoa học sau là chủ tŕ: GS.TS D.W.Bresters, TS. M.G. de Bruin, Khoa Toán cho các ngành phi toán; GS.TS J.Th. Runnenberg, Khoa Toán – Tin, trường ĐHTH Amsterdam.

            Giai đoạn 1: Hợp tác giữa Khoa Toán – Cơ – Tin học, Trường  Đại học Tổng hợp Hà Nội và Khoa Toán cho các ngành phi toán, Đại học Tổng hợp Amsterdam. Hoạt động này đuợc sự tài trợ của chính phủ Hà Lan thông qua tổ chức NUFIC. Giai đoạn này chủ yếu là trao đổi khoa học giữa hai đơn vị. Đồng thời đề tài đă giành một khoản kinh phí mua 4 máy tính cá nhân, 1 máy Photocopy và hàng tạ sách cho thư viện Khoa.

Giai đoạn 2: Đề tài đă xin được hai suất học bỗng nghiên cứu sinh, đó là nghiên cứu sinh Nguyễn Hữu Công và Tăng Đặc Công. Sau đó hai người đều bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ và một năm sau thầy Nguyễn Hữu Công đă bảo vệ đặc cách luận án Tiến sĩ Khoa học.

Từ năm 1991 – 1994 các nhà khoa học của hai đơn vị đă đền làm việc tại các nước đối tác. Có thể nói rằng Đề tài VH25 là chương tŕnh hợp tác quốc tế thành công nhất từ trước đến nay của Khoa Toán – Cơ – Tin học, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong khuôn khổ của Đề tài, nhiều cán bộ của Khoa đă được nâng cao tŕnh độ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Phía Hà Lan đă đào tạo cho Việt Nam hai tiến sĩ có tŕnh độ chuyên môn cao. Các thiết bị do VH25 cung cấp, tuy không nhiều nhưng là những thiết bị tính toán và in ấn đầu tiên mà Khoa có và là của hiếm ở Việt Nam thời gian này.

            Giai đoạn trực thuộc Đại học Quốc gia

            Năm 1995, ĐHQG Hà Nội được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba trường: Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Sư Phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Ngoại Ngữ Hà Nội. Theo phiên chế mới, Đại học Tổng hợp Hà Nội được tách làm hai trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Đại học Khoa học Xă hội Nhân văn.

            Năm 1999, Khoa Toán – Cơ – Tin học chuyển từ nhà A về tầng 3 nhà T3, cơ sở Thượng Đ́nh, vẫn giữ nguyên tổ chức biên chế và vẫn là một Khoa của trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Có khác là số lượng cán bộ giảm sút do một số được điều động đi tham gia đơn vị mới thành lập, như Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Khoa học Xă hội Nhân văn… Đặc biệt là lớp cán bộ đầu tiên của Khoa (sinh những năm 30) và hầu hết cán bộ thuộc lớp kế cận cũng lần lượt nghỉ hưu trong giai đoạn này. Số lượng GS và PGS giảm nhanh.

Năm 1995  GS TS Đặng Huy Ruận được cử làm chủ nhiệm Khoa, PGS Trần Huy Hổ và TS Nguyễn Văn Vinh được cử làm phó chủ nhiệm Khoa nhiệm kỳ 1995 -1999.

            Nhiệm vụ đầu tiên của Khoa trong giai đoạn này là củng cố tổ chức bổ sung lực lượng cho Bộ môn Tin học, đồng thời Khoa đă mời các thầy cô nghỉ hưu tiếp tục tham gia giảng dạy, hướng dẫn cao học và  nghiên cứu sinh. Việc tiếp theo là tuyển chọn một số học viên tốt nghiệp cao học xuất sắc, một số sinh viên tốt nghiệp đại học xuất sắc giữ lại làm giảng viên, đồng thời nhanh chóng gửi đi đào tạo tiến sĩ ở các nước tiên tiến. Số cán bộ, học viên  này sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đă trở về Khoa công tác, như các tiến sĩ: Lê Minh Hà, Phó Đức Tài, Lê Huy Chuẩn, Lê Huy Tiễn, Đào Phương Bắc, Vơ Thị Như Quỳnh, Vũ Hoàng Linh, Lê Công Lợi, Trần Mạnh Cường, Nguyễn Thịnh, Đặng Anh Tuấn, Ngô Quốc Anh, Ninh Văn Thu, Nguyễn Thạc Dũng, Lê Đ́nh Định, Nguyễn Trọng Hiếu, Tạ Việt Tôn, Vũ Đỗ Long, Trần Thanh Tuấn, Bùi Thanh Tú…

            Từ năm 1995 về mặt đào tạo Khoa vẫn giữ được lưu lượng 240 sinh viên hàng năm (toán 60, cơ 40, tin học 140) suốt hàng chục năm liền. Điều đáng nói là chất lượng đầu vào ngày càng giảm dần do ư thức học tập từ bậc phổ thông sụt dần theo năm tháng. Được sinh trưởng trong một gia đ́nh không đông anh em, được cha mẹ chăm sóc đầy đủ nên ư thức học cho sự tiến bộ của bản thân học để hiểu biết chưa cao cộng với cơ chế thị trường và khi tốt nghiệp ra thường khó t́m việc làm nên là cho nhiệt t́nh học toán cơ dần dần giảm sút. Công việc đào tạo ngày càng vất vả hơn. Làm sao trong điều kiện đó vẫn giữ vững được chất lượng đào tạo là một khó khăn.

            Với các biện pháp khác nhau từ đào tạo theo hai giai đoạn, xiết chặt qui chế học tập thi cử, chế độ học theo tín chỉ…nhưng ư thức học tập của phần lớn sinh viên vẫn không tiến bộ được là bao.  Kết quả rơ nét nhất là số sinh viên không tốt nghiệp, không tốt nghiệp đúng kỳ hạn, bị treo bằng chiếm tỷ lệ cao so với thời gian trước đây. Điều này không những chỉ xẩy ra ở Khoa Toán – Cơ –Tin học mà c̣n ở nhiều trường đại học khác trong cả nước.

            Phải nói rằng tuy gặp rất nhiều khó khăn trong việc đào tạo cán bộ ngành Toán ngành Cơ trong thời buổi xă hội hoạt động theo cơ chế thị trường, Khoa Toán cơ tin học với đội ngũ cán bộ trẻ, rất trẻ về tuổi đời về kinh nghiệm đào tạo nhưng rất yêu Toán, thông minh năng động nhiệt t́nh hăng hay với nghề nghiệp kế tục một cách xứng đáng với thế hệ đàn anh nên đă giữ vững chất lượng đào tạo và có một số mặt được phát triển tốt như toán học ứng dụng. C̣n về mặt đào tạo nhân tài cho ngành Toán th́ nằm ở chương tŕnh cử nhân tài năng, chương tŕnh tiên tiến, chương tŕnh chuyên toán.

            Năm 1999 Khoa bầu lănh đạo mới. GS TSKH Phạm Kỳ Anh được bầu làm chủ nhiệm khoa và hai phó chủ nhiệm khoa là GS TS Nguyễn Hữu Dư và GS TSKH Nguyễn Hữu Công, một năm sau đó GS Nguyễn Hữu Công được chuyển làm chủ nhiệm khoa sau đại học của ĐHQGHN, GS TS Nguyễn Văn Minh được cử làm phó chủ nhiệm Khoa. Khi GS Nguyễn Văn Minh đi công tác nước ngoài dài hạn th́ lần lượt được bổ sung bởi các PGS Phạm Chí Vĩnh; PGS Đào Văn Dũng và PGS Trần Văn Cúc.

            Cũng như các thế hệ lănh đạo trước đây, Ban chủ nhiệm khoa mới coi công tác đào tạo là trọng tâm thường xuyên chỉ đạo làm sao cho côcng tác đào tạo ngày càng được củng cố và nâng cao trong điều kiện ư thức và trách nhiệm học tập của nhiều sinh viên bị giảm sút. Song song với nhiệm vụ đó Ban chủ nhiệm khoa nhiệm kỳ này đă đề ra các chủ trương nhămg vào ba mặt công tác lớn và đạt được những kết quả sau đây:

1.         Giữ vững sự ổn định và đoàn kết trong khoa trong điều kiện có nhiều cán bộ về hưu hoặc chuyển sang đơn vị công tác mới. Số cán bộ trẻ được bổ sung về khoa ngày càng đông. Người ta đánh giá coi đây là giai đoạn chuyển giao thế hệ. Việc ổn định tổ chức và duy tŕ đều các hoạt động của khoa trong giai đoạn này là hết sức quan trọng. Khoa đă vượt khó và đă thành công trong giai đoạn chuyển giao thế hệ.

2.         T́nh h́nh kinh tế xă hội đă có bước phát triển tốt, điều kiện đẩy mạnh các hoạt động của khoa thuận lời hơn nhiều. Ban chủ nhiệm khoa chủ trương trong nhiệm kỳ này đưa công tác khoa học nên một tầm cao mới.

            Khoa đă đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế. Đă h́nh thành những nhóm nghiên cứu mạnh về Tôpô Đại số, Phương t́nh vi phân, Giải tích số, Xác suất – Thống kế, Cơ học,… với nhiều công tŕnh khoa học được công bố các tạp chí quốc tế có uy tín cao. Một cán bộ của Khoa – GS.TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng đă được Đại học Quốc gia Hà Nội trao tặng giải thưởng cho cụm công tŕnh nghiên cứu khoa học xuất sắc giai đoạn 2001 – 2005. Một số cá nhân và nhóm nghiên cứu khác cũng đă được tặng giải thưởng cụm Công tŕnh Khoa học tiêu biểu trong năm của ĐHQG.

            Khoa đă tổ chức thành công một số hội nghị quốc tế và trường quốc tế, như: Trường quốc tế CIMPA – UNESCO – HANOI về hệ khả tích và điều khiển; Hội nghị quốc tế về phương tŕnh vi phân, lư thuyết xấp xỉ và ứng dụng (2001); Trường quốc tế về công nghệ phần mềm tiên tiến (2004); Hội thảo quốc tế về tính toán hiệu năng cao và ứng dụng  (2005); Hội thảo quốc tế về Phương tŕnh vi phân và ứng dụng (2009); Hội nghị Tôpô Đại số Đông Á lần thứ 3 (2009)… Ngoài ra một só cán bộ trong Khoa c̣n là đồng chủ tŕ nhiều hội nghị quốc tế và chủ tŕ nhiều hội nghị khoa học cấp quốc gia, tham gia các ban chấp hành hội, hội đồng khoa học ngành hay ban biên tập các tạp chí chuyên ngành: GS.TS Nguyễn Hữu Dư là Tổng thư kư, GS.TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng là Phó Chủ tịch (phụ trách quan hệ quốc tế) của Hội Toán học Việt Nam. Hai giáo sư cũng đă vinh dự được lưa chọn làm thành viên Hội đồng Khoa học của Viện nghiên cứu cao cấp về Toán do GS.Ngô Bảo Châu là Giám đốc Khoa học. Điều này chứng tỏ uy tín khoa học cũng như năng lực tổ chức của cán bộ trong Khoa ngày càng được nâng cao.

            Hơn 10 xêmina thường xuyên hoạt động tại Khoa thu hút được nhiều nhà khoa học trong và ngoài trường tham gia. Nhiều cán bộ trẻ của Khoa hăng say nghiên cứu khoa học, đă có công tŕnh công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín như Trần Ngọc Nam, Đào Phương Bắc, Vơ Thị Như Quỳnh, Đặng Anh Tuấn, Lê Huy Chuẩn, Ninh Văn Thu, Vũ Nhật Huy, Phạm Việt Hải, Nguyễn Thạc Dũng, Ngô Quốc Anh, Bùi Thanh Tú, Trần Thanh Tuấn, Nguyễn Hải Đăng, Tạ Việt Tôn, Nguyễn Trọng Hiếu, Lê Hồng Phương…

            Số lượng các công tŕnh nghiên cứu được cán bộ của Khoa công bố trên các tạp chí quốc tế đă tăng mạnh từ năm 2009. Nếu như giai đoạn từ năm 2008 trở về trước số lượng công tŕnh quốc tế do các cán bộ của Khoa công bố chỉ khoảng 20 bài/năm th́ năm 2009 là 43 bài.

            Hội nghị Khoa học năm 1998 tổ chức ngày 22/04/1997 có 60 báo cáo của Khoa.   Có tuyển tập công tŕnh khoa học ngành Toán 283 trang.

            Hội nghị Khoa học năm 2000 tổ chức ngày 23/11/2000 có 74 báo cáo.

            Hội nghị Khoa học năm 2003, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên tổ chức hội nghị      khoa học vào ngày 29/11/2003 Khoa Toán – Cơ – Tin học có tham dự 6 báo cáo .

            Hội nghị Khoa học năm 2004 tổ chức vào tháng 11/2004 có 56 báo cáo.

            Hội nghị Khoa học năm 2006 kỷ niệm 50 năm thành lập trường ngày 7/10/2006 có           115 báo cáo.

3.         Xây dựng được dự án để nhà nước, ĐHQG và trường ĐH Khoa học Tự nhiên đầu tư lớn về trang thiết bị cơ sở vật chất cho tin học và tính toán khoa học

            Giai đoạn này cán bộ trong khoa làm chủ những phương tiện tính toán hiện đại bậc nhất Việt Nam với tổng năng lực tính toán lên đến 300 tỉ phép tính dấu phẩy động trong 1 giây. Hệ thống máy tính này sẽ giúp cán bộ trong Khoa giải quyết các bài toán ứng dụng với khối lượng tính toán rất lớn trong thời gian thực (real-time).

            Mối quan hệ hợp tác giữa Khoa Toán – Cơ – Tin học với các đơn vị bạn, như Viện Toán học, Viện Cơ học, Viện Công nghệ thông tin thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, các Trường anh em như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội I, Đại học Vinh, Đại học Sư phạm Hà Nội II, Đại học Quy Nhơn… ngày càng được củng cố và phát triển.

            Cuối năm 2006, sau khi tổ chức rất thành công và trang trọng Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Khoa, GS. Phạm Kỳ Anh vẫn c̣n thời gian nhiệm kỳ Chủ nhiệm Khoa, nhưng với mong muốn trẻ hóa đội ngũ lănh đạo Khoa nên đă xin thôi công tác quản lư. Các cán bộ viên chức của Khoa đă tín nhiêm giới thiệu GS. Nguyễn Hữu Dư lên làm Chủ nhiệm khoa. Các phó chủ nhiệm Khoa khi đó là PGS. Đào Văn Dũng, PGS. Trần Văn Cúc và PGS. TS. Vũ Hoàng Linh. Đến tháng 9 năm 2008 GS. Nguyễn Hữu Dư được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng trường ĐHKHTN nhiệm kỳ 2008-2013.

            Cuối năm 2008, sau khi lấy phiếu tín nhiệm ở Hội nghị Khoa và được Đảng ủy thông qua, Hiệu trưởng nhà trường đă bổ nhiệm ban lănh đạo mới của Khoa nhiệm ḱ 2008-2013 gồm: TS. Lê Minh Hà, TS. Lê Công Lợi làm Phó chủ nhiệm Khoa. Tháng 9/2010 TS Lê Công Lợi được bổ nhiệm làm Phó Hiệu Trưởng Trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên, Trường đă bổ nhiệm TS. Nguyễn Thị Minh Huyền làm Phó chủ nhiệm Khoa thay thế. Đây là một BCN Khoa có độ tuổi rất trẻ tính từ năm 1966 (10 năm sau ngày thành lập, lúc mới thành lập đội ngũ lănh đạo thường rất non trẻ).

            Ban chủ nhiệm Khoa nhiệm ḱ 2008-2013 kế tục nhiệm vụ điều hành công tác đào tạo trong thời kỳ các ngành đào tạo cơ bản không có sức hấp dẫn cao trong xă hội, một nhiệm vụ nặng nề và phức tạp trong bối cảnh số sinh viên nhiệt t́nh với việc học Toán giảm sút. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ của Khoa trong thời ḱ chuyển giao thế hệ, nhiều thầy cô có kinh nghiệm dần nghỉ hưu, v́ thế Khoa phải bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ để có thể dần đảm đương công tác đào tạo, kể cả đào tạo ở bậc sau đại học.

            Bên cạnh công tác đào tạo, trọng tâm công tác trong nhiệm kỳ này đượcChủ nhiệm khoa đề xuất và thực hiện:

- Xây dựng và phát triển đội ngũ trẻ để tiến tới thay thế được lớp đàn anh khi họ nghỉ hưu. Tạo điều kiện để các cán bộ trẻ được học tập, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn và tham gia nghiên cứu khoa học từ các nguồn kinh phí và bằng các h́nh thức khác nhau như đi thực tập tại Đại học Washington, Hoa Kỳ theo CTTT, đi nghiên cứu sinh theo dự án 322, đi trao đổi hợp tác khoa học với nước ngoài. Bên cạnh đó vẫn tiếp tục mời các thầy cô có kinh nghiệm tham gia giảng dạy, bồi dưỡng cán bộ trẻ.

- Chú trọng và khuyến khích cán bộ tham gia công tác nghiên cứu khoa học. Tạo điều kiện để các cán bộ trẻ đăng kí đề tài cấp trường và cấp ĐHQG, đề xuất với BGH nhà trường cơ chế hỗ trợ bài báo khoa học hợp lư. Tích cực phát triển hợp tác với các trường, viện trong và ngoài nước. Trong thời gian này nhờ kinh phí của CTTT, Khoa đă mời được gần 30 giáo sư đến từ Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật,... đến thỉnh giảng. Trong thời gian 2008-2014 đă có…    tiến sĩ được bảo vệ và có……công tŕnh được công bố trên các tạp chí có uy tín trong và ngoài nước

- Duy tŕ ổn định quy mô và chất lượng các chương tŕnh đào tạo, trong đó có hệ CNKHTN ngành Toán học, mở thí điểm chương tŕnh đào tạo ngành Máy tính và Khoa học thông tin, thực hiện thành công dự án chương tŕnh đào tạo tiên tiến với 4 khóa sinh viên. Cho đến cuối nhiệm kỳ đă có…..   sinh viên tốt nghiệp theo chương tŕnh này với kết quả tốt.

- Sử dụng hiệu quả kinh phí nhà nước, tận dụng mọi nguồn thu để duy tŕ ổn định quỹ phúc lợi, góp phần tạo một bầu không khí đoàn kết, thân ái trong đội ngũ cán bộ viên chức Khoa. Hàng năm, công đoàn Khoa đều tổ chức nghỉ hè, tham quan, để lại nhiều kỉ niệm đáng nhớ trong cán bộ, viên chức và gia đ́nh.

 

            Từ năm 2014 PGS.TSKH Vũ Hoàng Linh được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng trường ĐHKHTN – Ban chủ nhiệm khóa mới (nhiệm kỳ 2014 – 2019) gồm:

PGS.TS Lê Minh Hà làm chủ nhiệm Khoa

TS Vũ Đỗ Long làm Phó chủ nhiệm Khoa

TS Nguyễn Thị Minh Huyền Phó chủ nhiệm Khoa

TS Lê Huy Chuẩn làm Phó chủ nhiệm Khoa

Ban chủ nhiệm Khoa mới tiếp tục điều hành công tác đào tạo, công tác nghiên cứu khoa học và công tác xây dựng đội ngũ mà lănh đạo Khoa ở các giai đoạn trước bàn giao lại.   

Trong nhiệm kỳ này BCN Khoa mới đă định hướng tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, có ư nghĩa, có tác dụng cho sự nghiệp đổi mới khoa học và đă được lấy ư kiến đóng góp của CBCNV trong các kỳ sinh hoạt tập thể của Khoa.

            Trước hết về mặt NCKH, Khoa chủ trương một mặt vẫn giữ vững thế mạnh về nghiên cứu khoa học cơ bản bằng cách duy tŕ và xây dựng mới những nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQG và cấp ĐHKHTN, thành lập các nhóm nghiên cứu tiền năng, nhóm nghiên cứu trẻ. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu của xă hội và của nền kinh tế, Khoa sẽ tập trung đầu tư về nguồn lực, phát triển các chương tŕnh đào tạo và nghiên cứu Toán ứng dụng và ứng dụngToán, tăng cường hiệu quả của việc ứng dụng Toán – Tin học,  tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn cấp bách của xă hội như an toàn thông tin, biến đổi khí hậu, dự báo…

            Để góp phần đào tạo cán bộ phục vụ thiết thực cho nhu cầu xă hội, góp phần nâng chất lượng đầu vào Khoa sẽ xây dựng mới hoặc mở rộng các định hướng mới như Toán - sinh, thống kê, tài chính – định lượng, khoa học dữ liệu, mật mă và an toàn thông tin, tính toán khoa học….

Gần 2 năm hoạt động ban lănh đạo khoa nhiệm kỳ này đă bắt nhịp được với guồng hoạt động các mặt công tác của khoa trong nhiệm kỳ trước đă bàn giao lại. Với ư tưởng xây dựng thêm một số định hướng mới hoặc mở rộng các ngành hiện có là sự thể hiện muốn đổi mới các loại h́nh đào tạo.

            Về công tác đào tạo sau đại học

Về công tác đào tạo cao học Khoa Toán – Cơ – Tin học được phép đào tạo cao học từ năm 1991 theo quyết định số 2551/QĐSĐH ngày 05/10/1991 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Là một trong những đơn vị đầu tiên trong toàn quốc mở hệ đào tạo cao học và là đơn vị đi đầu của trường ĐHKHTN Đại học Quốc gia Hà Nội về chất lượng và số lượng học viên cao học được đào tạo. Khoa thực hiện đào tạo 09 chuyên ngành truyền thống về Toán học, Cơ học, Đảm bảo toán học cho máy tính và hệ thống tính toán để phục vụ cho việc đào tạo bồi dưỡng học sinh năng khiếu Toán học, Khoa đă đề xuất chuyên ngành phương pháp toán sơ cấp nhằm đào tạo chuyên gia có tŕnh độ cao về toán sơ cấp. Chuyên ngành này đă đưộc Bộ Giáo dục và Đào tạo duyệt làm chuyên ngành đào tạo thạc sỹ và sau đó một số trường đại học khác cũng đă mở chuyên ngành này. Tính từ ngày bắt đầu đào tạo cho hết năm 2015 Khoa đă đào tạo được hơn 1500 thạc sỹ với chất lượng đảm bảo.

            Về công tác nghiên cứu sinh (vẫn c̣n viết tiếp)

            Chặng đường 60 năm là một chặng đường xây dựng và phát triển đầy biến động phức tạp. Chưa đủ 10 năm h́nh thành và cũng cố tổ chức, Khoa Toán đă bước vào thời kỳ cả nước có chiến tranh dạy và học ở miền rừng núi trong điều kiện chiến tranh cũng gần 10 năm trời.

            Chiến thắng vĩ đại đưa Khoa vào thời kỳ cả nươc thống nhất có thêm một khối lượng công việc lớn phục vụ việc thống nhất đào tạo cán bộ ngành Toán để giúp các đơn vị ở vùng mới giải phóng mau ổn định và trở thành một bộ phận hữu cơ trong hệ thống đào tạo cán bộ ngành Toán của cả nước. Mới dăm ba năm công việc ổn định Khoa Toán lại bị cuốn vào suy thoái kinh tế của cả nước với gần chục năm nữa. Cho đến thời kỳ đổi mới với 20 năm trở lại đây Khoa Toán – Cơ - Tin học mới bắt đầu có thể tập trung đầy đủ vào công việc chuyên môn của ḿnh.