NHỮNG KỶ NIỆM VỀ GIÁO SƯ HOÀNG TỤY

(Bài viết nhân dịp Giáo sư Hoàng Tụy nhận Giải thưởng Caratheodory, vào tháng 9 năm 2011 và kỷ niệm 55 năm (1956 – 2011) thành lập Khoa Toán  – Cơ – Tin, Trường ĐHKHTN, ĐHQGHN)

Nhiều tài liệu trong nước và quốc tế đă viết, đă vinh danh Giáo sư Hoàng Tụy một cách xứng đáng. Giáo sư là cháu nội của Cụ Hoàng Văn Bảng, em trai của Tổng đốc thành Hà Nội Hoàng Diệu. Để nói về một con người, một nhà khoa học, nhất là khi người đó đă được tôn vinh về nhiều mặt, trong một vài trang giấy, trong một câu chuyện ngắn, về nguyên tắc là một việc không thể làm được, ít nhất là đối với tôi. Tuy nhiên, sau 45 năm được biết GS. Hoàng Tụy, với tư cách là một học tṛ từ thời phổ thông chuyên toán, tôi muốn nói khái quát về Ông như sau: Giáo sư Hoàng Tụy là một nhà toán học xuất sắc, nổi tiếng thế giới, một nhà sư phạm mẫu mực, người có nhiều ư tưởng ở tầm chiến lược trên quan điểm hệ thống về sáng tạo toán học, về chấn hưng khoa giáo và trên cả là xây dựng và phát triển đất nước.

Mặc dù đă có nhiều bài viết về GS. Hoàng Tụy, nhưng chúng tôi thấy vẫn c̣n ít bài viết về Ông trước khi Ông nổi tiếng, tức là khi Ông c̣n làm Chủ nhiệm Khoa (CNK) Toán, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trước khi cái tên Tuy’s Cut (Lát cắt Tụy) trở thành quen thuộc trong giới toán học trên thế giới và trước khi Ông chủ tŕ một nhóm nghiên cứu tư vấn gồm những nhà khoa học, giáo dục và văn hoá nổi tiếng và giàu tâm huyết với đất nước, để đưa ra những kiến nghị phát triển giáo dục nước nhà. V́ thế, trong bài viết này, chúng tôi muốn bổ sung thêm vào phần “c̣n ít bài viết đó, muốn ôn lại những kỷ niệm sâu đậm không thể nào quên về GS. Hoàng Tụy, người thầy mẫu mực của ḿnh từ những năm học phổ thông chuyên toán A0 (1965–1967) trên khu sơ tán Thái Nguyên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. (A0 là tên viết tắt bí mật của Lớp chuyên toán khoá I chúng tôi trong những năm chiến tranh chống Mỹ, khi đi sơ tán. A1, A2,... chỉ các lớp toán năm thứ nhất, thứ hai,..., B là vật lư, C là hoá học,...).

Chúng tôi viết bài này để chúc mừng GS. Hoàng Tụy khi Ông là người đầu tiên trên thế giới vừa được trao tặng Giải thưởng Constantin Caratheodory và để chúc mừng Khoa Toán – Cơ – Tin, Trường ĐHKHTN, ĐHQGHN, tṛn 55 tuổi (1956–2011), mà GS. Hoàng Tụy là Chủ nhiệm khoa thứ hai (có người nói là Chủ nhiệm khoa đầu tiên). Mười một Chủ nhiệm khoa từ ngày được thành lập đến nay là các Giáo sư: Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Phan Văn Hạp, Hoàng Hữu Như, Trần Văn Nhung, Nguyễn Duy Tiến, Phạm Trọng Quát, Đặng Huy Ruận, Phạm Kỳ Anh, Nguyễn Hữu Dư, Vũ Hoàng Linh (và nay, năm 2016, là Lê Minh Hà). Điều rất thú vị là CNK đầu tiên và CNK hiện nay đều họ Lê, và cũng chỉ có hai CNK họ Lê mà thôi trong tổng số 12 CNK. Điều thú vị nữa là ngay trong bài viết này, theo góc độ chuyên môn, chúng tôi trích dẫn tên của 6 trong số 12 người nói trên.

1. Nhà toán học tài năng, nhà sư phạm chuẩn mực

GS. Hoàng Tụy đă được tôn vinh ở trong nước và ngoài nước, Ông đă được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu (năm 1996) về khoa học công nghệ, cùng với GS. Tạ Quang Bửu, GS. Lê Văn Thiêm, GS. Nguyễn Văn Hiệu,... Giải thưởng Phan Chu Trinh (năm 2010) và là người đầu tiên trên thế giới vừa được Hiệp hội Quốc tế về Tối ưu toàn cục trao Giải thưởng cao quư mang tên nhà toán học xuất sắc người Hy Lạp Constantin Caratheodory (1873–1950), do những đóng góp tiên phong và nền tảng của Ông trong lĩnh vực này. Là tác giả của 170 công tŕnh khoa học được công bố trên các tạp chí toán học nổi tiếng trên thế giới, GS. Hoàng Tụy được thừa nhận là “cha đẻ” của Lư thuyết Tối ưu toàn cục (Global Optimization), trong đó có khái niệm quan trọng “Tuy’s Cut” (Lát cắt Tụy) mang tên Ông.

Khi GS. Hoàng Tụy đă trở thành nhà toán học Việt Nam nổi tiếng trên thế giới th́ ngày càng có nhiều bài viết về Ông ở trong nước và nước ngoài. Trong một số bài viết của ḿnh, tác giả Hàm Châu, một chuyên gia viết về các nhà khoa học Việt Nam thành đạt và một số người khác thường nhắc đến hai nhà toán học Việt Nam tiêu biểu, nổi tiếng thế giới, một già một trẻ, đó là GS. Hoàng Tụy và GS. Ngô Bảo Châu [3], người đầu tiên của Thế giới thứ ba được trao Giải thưởng Fields cao quư nhất về Toán học trên thế giới. Đáng chú ư là cả hai nhà toán học xuất sắc và tiêu biểu này đều “xuất phát” từ Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. GS. Ngô Bảo Châu nguyên là học sinh Khối chuyên Toán khoá XXII của Trường, là người Việt Nam đầu tiên hai lần giành Huy chương Vàng Olympic Toán quốc tế (1988, 1989) đă sang Pháp rồi Mỹ học tập, nghiên cứu rồi đạt đến “tột đỉnh vinh quang” (theo lời GS. VS. Nguyễn Văn Hiệu) như ngày hôm nay. GS. Hoàng Tụy, cha đẻ của Lư thuyết Tối ưu toàn cục, nổi tiếng thế giới với “Tuy’s Cut” (Lát cắt Tụy) trong công tŕnh khoa học đăng khoảng năm 1966, khi ấy Ông đang là Chủ nhiệm khoa.

GS. Hà Huy Khoái cũng đă có những bài viết hay về GS. Lê Văn Thiêm, GS. Hoàng Tụy và GS. Fredric Phạm trên Tạp chí Tia sáng. GS. Nguyễn Duy Tiến đă có bài khá độc đáo về GS. Ngô Bảo Châu trong cuốn sách của ḿnh mới được NXB Giáo dục Việt Nam in năm 2010, về GS. Hoàng Hữu Như trên Thông tin Toán học của Hội Toán học Việt Nam số tháng 3/2011 và cũng sắp hoàn thành bài viết về GS. Hoàng Tụy.

Ngay từ những năm 1963–1964, khi c̣n đang học lớp 8 ở quê, tôi đă được biết đến tên thầy Hoàng Tụy và thầy Lê Hải Châu qua các sách giáo khoa toán phổ thông, tên các nhà toán học Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Nguyễn Cảnh Toàn, Phan Đ́nh Diệu, Hoàng Xuân Sính, Hoàng Chúng (em trai thầy Hoàng Tụy),... qua Báo Toán học và Tuổi trẻ. Tôi c̣n nhớ những cuốn sách giáo khoa phổ thông môn Toán ngày ấy rất mỏng, rất cơ bản, súc tích và chắt lọc, nhưng vẫn cung cấp cho chúng tôi đủ những kiến thức cần thiết. V́ sao không cần nhiều nhưng vẫn đủ? V́ các tác giả là những nhà toán học và sư phạm uyên thâm, là những thầy giáo đă trực tiếp dạy toán ở bậc phổ thông và đại học, đă thực sự nghiên cứu toán học và sư phạm, đă tham khảo những sách giáo khoa chuẩn mực của các nước có nền sư phạm chuẩn mực và tiên tiến trên thế giới như Nga, Pháp,... Có thể nói thế này được không: Để viết sách giáo khoa chuẩn mực cần phải có những bậc thầy chuẩn mực. Chuẩn mực ở đây được hiểu theo nghĩa có sự kết hợp hài hoà giữa lư thuyết với thực hành, giữa sơ cấp với cao cấp, giữa truyền thống với hiện đại, giữa quốc gia với quốc tế. Chúng tôi rất mừng khi thấy rằng hiện nay khi đổi mới chương tŕnh và sách giáo khoa phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam và các tác giả đă dày công nghiên cứu và tham khảo có chọn lọc các chương tŕnh, sách giáo khoa phổ thông của nước ta từ trước đến nay và của các nước tiên tiến trên thế giới, theo đúng phương châm giáo dục của Đảng ta là “cơ bản, hiện đại và Việt Nam.

Năm 1965, thầy Hoàng Tụy đă dạy cho lớp 9 chuyên toán A0 khoá I của chúng tôi những khái niệm đầu tiên về lôgic toán, toán học hữu hạn và lư thuyết đồ thị. Mặc dù Thầy dạy cho chúng tôi không nhiều, v́ với cương vị Chủ nhiệm khoa Thầy rất bận, nhưng ấn tượng về những bài giảng của Thầy trong tôi vẫn c̣n rất sâu đậm cho đến tận ngày nay, sau gần nửa thế kỷ. Trong pḥng học sơ sài thời sơ tán, cái bảng đen rất nhỏ, nhưng vẫn đủ để cả buổi học Thầy viết trên đó mà không cần xoá bảng. Đúng là Thầy có nghệ thuật sử dụng và tŕnh bày trên bảng một cách tối ưu! Đôi mắt sáng của Thầy luôn hướng về phía học tṛ khi nêu vấn đề, khi đặt câu hỏi, khi gợi ư và khi khuyến khích, động viên chúng tôi. Thầy chú ư dạy học tṛ hiểu được xuất xứ, bản chất và các mối liên quan của vấn đề. Cách dạy của Thầy độc đáo và cuốn hút, không sa vào các công thức và kỹ thuật, để tránh cho học tṛ “thấy cây mà không thấy rừng”. Mỗi khi cần viết lên bảng th́ Thầy lại viết rất nắn nót, cẩn thận, rơ ràng, ví dụ chữ cái c, t,... c̣n có cả đuôi bên trái. Nhiều đồng nghiệp cũng nhất trí với tôi rằng GS. Hoàng Tụy là một trong những nhà toán học và nhà sư phạm xuất sắc, thể hiện qua nghiên cứu khoa học, giảng dạy, diễn thuyết, viết sách và trong các đề xuất, chủ trương cải cách và phát triển nền toán học, khoa học và giáo dục nước nhà.

Là một học sinh nhà quê mới ra tỉnh, lần đầu tiên khi được nghe những bài giảng toán của các thầy Hoàng Tụy, Phan Đức Chính, Hoàng Hữu Đường, Nguyễn Thừa Hợp, Lê Minh Khanh, Nguyễn Duy Tiến, Đặng Hữu Đạo, Nguyễn Viết Phú vừa trẻ vừa giỏi vừa tràn đầy nhiệt huyết, tôi có cảm giác như ḿnh đang được bố mẹ cho ra phố xem “ảo thuật” vậy. Đă thế trong môi trường mới của Lớp chuyên Toán đầu tiên có nhiều bạn giỏi cả Toán và tiếng Nga đến từ nhiều tỉnh thành trên miền Bắc, như bạn Hoàng Văn Kiếm, Đỗ Thanh Sơn, Nguyễn Đ́nh Bạn, Nguyễn Nam Hồng, Nguyễn Lam Sơn, Nguyễn Viết Chính, Phan Trịnh Hải, Nguyễn Văn Xoa, Nguyễn Hữu Dung, Cao Công Tường,... càng khiến tôi bị “ngợp” trong thời gian đầu. Đến nay, mặc dù những kiến thức cụ thể thu được từ bài giảng của các thầy có thể đă bị quên khá nhiều, nhưng ấn tượng, kư ức về tŕnh độ, tài năng, tâm huyết và ḷng yêu nghề của các bậc thầy vẫn c̣n đọng lại măi trong suốt cuộc đời chúng tôi như một chất men say. Đúng như William A. Ward đă nói: “Người thầy trung b́nh chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh hoạ, người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng.

Vào một ngày cuối thu đầu đông năm 1967, khi bắt đầu vào học lớp toán năm thứ nhất của Khoa Toán, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ở khu sơ tán tại tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi được đón GS. Chủ nhiệm khoa Hoàng Tụy đến thăm và nói chuyện để khai giảng khoá học. Tất cả chúng tôi đă bị cuốn hút bởi câu chuyện hấp dẫn Ông kể hôm đó. Có lúc Ông nói vui: “Khi tôi nói tiếng Anh ở nước ngoài người ta lại khen tôi giỏi tiếng Pháp.” Ông đă cho chúng tôi biết nền toán học Nga đồ sộ sau này cũng được bắt đầu, phát triển và rẽ nhánh từ trường phái ban đầu về lư thuyết hàm biến thực của N. N. Luzin (1883–1950). Càng ngày khi ngẫm lại câu chuyện của thầy Tụy tôi càng thấy trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, nền Toán học Xô Viết đă có ảnh hưởng to lớn, tích cực đến nền Toán học Việt Nam và h́nh như quá tŕnh xây dựng, phát triển và phân nhánh của Toán học nước nhà cũng theo một lộ tŕnh gần tương tự như ở nước Nga. Nhiều chuyên ngành toán học và các giáo sư hàng đầu cũng đă được sinh ra từ giải tích, từ việc ứng dụng trực tiếp hoặc gián tiếp giải tích, nhất là giải tích hiện đại, vào các lĩnh vực khác, như tối ưu hoá, giải tích số, toán ứng dụng, xác suất – thống kê, tôpô, lư thuyết số, mật mă, đại số trừu tượng, hoá học, sinh học, vật lư, thiên văn,...

Năm 1984, khi tôi đang học tập và nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Tổng hợp Bremen (CHLB Đức) theo Học bổng Nghiên cứu Humboldt (AvH), th́ GS. Hoàng Tụy được GS. D. Hinrichsen mời đến làm việc và báo cáo trong seminar về kết quả nghiên cứu bài toán tối ưu của Ông. Mặc dù đă nhiều lần được nghe GS. Hoàng Tụy giảng bài hoặc báo cáo seminar, hội nghị, nhưng đó là lần đầu tiên tôi được nghe Ông giảng bài ở nước ngoài. Tôi đă được chứng kiến các bạn quốc tế tham dự hôm đó rất thán phục nội dung toán học và tính sư phạm cao trong bài giảng của Ông. GS. Hoàng Hữu Đường cũng đă được GS. L. Arnlod mời đến báo cáo khoa học tại Trường này về số mũ Lyapunov. Sau hai báo cáo của hai ông Hoàng (Hoàng Tụy và Hoàng Hữu Đường), các bạn Đức nói rằng hai giáo sư toán học Việt Nam họ Hoàng đều là các nhà sư phạm giỏi, đều viết bảng rất đẹp! Một số giáo sư khác như Nguyễn Thế Hoàn, Vũ Quốc Phóng, Nguyễn Hữu Việt Hưng, Nguyễn Khoa Sơn (AvH), Nguyễn Đ́nh Công (AvH), Hồ Sĩ Đàm,... cũng đă từng đến làm việc và báo cáo khoa học tại đây.

2. Nhà khoa học và giáo dục có tư duy chiến lược và hệ thống

Về lịch sử h́nh thành của Khối chuyên Toán A0, sau này tôi được nghe một số thầy, trong đó có GS. Nguyễn Duy Tiến, kể lại rằng: Ư tưởng đầu tiên về việc mở Lớp chuyên toán A0 ở Việt Nam thuộc về GS. Hoàng Tụy, nguyên là Chủ nhiệm khoa Toán, Trường ĐHTH HN, có tham khảo cách làm của các nhà toán học Xô Viết vĩ đại như A. N. Kolmogorov, P. S. Alexandrov, I. M. Gelfand,... Tôi cho rằng GS. Hoàng Tụy c̣n tham khảo cả kinh nghiệm của Hungary, một nước nhỏ nhưng rất mạnh về toán, khi lập ra lớp toán năng khiếu đầu tiên. Đề xuất của GS. Hoàng Tụy được sự ủng hộ mạnh mẽ của
GS. Lê Văn Thiêm, Phó Hiệu trưởng, người anh cả của nền Toán học Việt Nam hiện đại; của GS. Ngụy Như Kon Tum, Hiệu trưởng; của GS. Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ ĐH và THCN; và của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người mà khi c̣n sống luôn luôn quan tâm đến giáo dục, nói riêng là việc đào tạo học sinh giỏi. (Xin xem Quyết định thành lập Lớp Toán đặc biệt đầu tiên năm 1965 do Phó Thủ tướng Phạm Hùng kư ngày 14/9/1965 thay Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng, ở Phần I). Lúc đầu, Lớp được gọi là “Lớp Toán đặc biệt”, sau
được đổi thành tên khiêm tốn hơn là “Lớp Toán dự bị” rồi “Lớp
Chuyên toán”.

Tác giả Hàm Châu và một số người kể lại rằng chính
GS. Hoàng Tụy cũng là một trong số những nhà toán học đầu tiên của ta đă tham khảo kinh nghiệm và nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, CHDC Đức và một số nước XHCN anh em, để phân tích, cân nhắc, đề xuất và cuối cùng năm 1974 Việt Nam đă cử đoàn gồm 5 học sinh giỏi đầu tiên đi dự thi Olympic Toán quốc tế (IMO 1974) tại CHDC Đức. Ngay lần đầu tiên “đem chuông đi đánh xứ người Hoàng Lê Minh đă giành Huy chương Vàng, Vũ Đ́nh Hoà giành Huy chương Bạc, Đặng Hoàng Trung và Tạ Hồng Quảng giành Huy chương Đồng và Nguyễn Quốc Thắng chỉ cần thêm 1 điểm th́ cũng được Huy chương Đồng. Lê Tuấn Hoa, năm đó cũng đă được vào “short list” của đội tuyển để luyện thi, chuẩn bị, nhưng cuối cùng chưa được đi dự thi, v́ năm đầu tiên cả đoàn chỉ có 5 học sinh, chứ không phải 8 như sau này, mà anh Hoa đứng thứ 6. Nay GS. TSKH. Lê Tuấn Hoa đă trở thành Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam và Giám đốc Điều hành Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán. Anh kể lại rằng: GS. Bộ trưởng Tạ Quang Bửu cũng rất quan tâm, ủng hộ và hằng tuần Ông đều đến thăm thầy và tṛ ở cở sở số 9 phố Hai Bà Trưng xem việc chuẩn bị đội tuyển đầu tiên ra sao.

Có lẽ GS. Hoàng Tụy và GS. Phan Đ́nh Diệu là hai trong số các nhà toán học Việt Nam đầu tiên nhận thấy tầm quan trọng của Lư thuyết hệ thống và muốn ứng dụng lư thuyết đó vào khoa học, giáo dục, quản lư, kinh tế và nhiều lĩnh vực khác. Có phải v́ thế chăng, khi nghiên cứu và bàn bạc về bất cứ lĩnh vực nào, nhất là giáo dục,
GS. Hoàng Tụy cũng luôn khuyến cáo phải xem trọng tính hệ thống của nó. Bản thân lĩnh vực mà cả đời Ông quan tâm, nghiên cứu là lư thuyết tối ưu toàn cục cũng mang tính hệ thống sâu sắc. Như chúng ta đều biết, những vấn đề toàn cục và hệ thống, không chỉ trong toán học, khoa học mà trong mọi lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, xă hội,... bao giờ cũng khó khăn, phức tạp và quan trọng hơn nhiều so với những vấn đề địa phương, cục bộ. V́ thấy lư thuyết hệ thống quan trọng như vậy cho nên tôi đă cố t́m hiểu xem ai là người đầu tiên đưa ra khái niệm này, lư thuyết này. Cuối cùng, theo thông tin mà tôi nhận được từ GS. Nguyễn Khoa Sơn (nguyên Phó Chủ tịch Viện HLKHCN Việt Nam), GS. Phạm Kỳ Anh (nguyên Chủ nhiệm Khoa Toán – Cơ – Tin, Trường ĐHKHTN, ĐHQGHN) và qua tài liệu tham khảo, th́ người đầu tiên vào năm 1961 đă đặt nền móng cho lư thuyết hệ thống toán học là M. D. Mesarovic, dựa trên ư tưởng từ năm 1950 của von Bertalanffy, Norbert Wiener, John von Neumann về lư thuyết hệ thống tổng quát. R. E. Kálmán, người Mỹ gốc Hungary, trong bài báo đăng trên SIAM J. v. 1, n. 1, năm 1963, đă đưa ra các khái niệm ban đầu và nêu một số bài toán đặt nền móng cho lư thuyết hệ thống hiện đại. Ở Việt Nam, năm 1983, GS. Hoàng Tụy đă cùng GS. Nguyễn Khoa Sơn xây dựng và điều hành Trung tâm phân tích hệ thống tại Viện Nghiên cứu quản lư kinh tế Trung ương.

Tiếp tục t́m hiểu thêm, chúng tôi được biết có lẽ nhà bác học người Scotland tên là Patrick Geddes (1854–1932) là người đầu tiên trên thế giới đă nêu ra ư tưởng về “hệ thống. Như vậy, phải mất hơn nửa thế kỷ sau đó lư thuyết hệ thống toán học và điều khiển học mới ra đời. Geddes không phải là nhà toán học mà là nhà nghiên cứu về sinh học, môi trường, quy hoạch đô thị, xă hội học, giáo dục học,... và nổi tiếng nhất về những ư tưởng cấp tiến trong quy hoạch đô thị và giáo dục. Ngay từ đầu thế kỷ trước, Geddes đă khuyến cáo loài người khi công nghiệp hoá, khi đô thị hoá, phải luôn chú ư giữ ǵn môi sinh, môi trường, phải luôn có cái nh́n hệ thống để quy hoạch tổng thể. Lời khuyến cáo đơn giản nhất, ngắn gọn nhất, nhưng cũng tổng hợp nhất của Ông là: “Suy nghĩ phải toàn diện, hành động phải cụ thể” (“Think globally, act locally”). Gần đây, Liên hiệp quốc cũng đă dùng câu này làm khẩu hiệu hành động cho cả loài người khi bước sang thế kỷ XXI, không chỉ trong việc bảo vệ môi trường, khắc phục hậu quả của biến đổi khí hậu, mà trong cả việc giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo, quyền lợi, chính trị, chống khủng bố,... Tóm lại, đây không chỉ là khẩu hiệu mà c̣n là nguyên tắc suy nghĩ và hành động của cả loài người khi bước sang thế kỷ mới này.

Việc trăn trở để có được một chiến lược và kế hoạch phát triển Toán học Việt Nam đă được bắt đầu khá sớm. Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, GS. Hoàng Tụy đă cùng các nhà toán học tiền bối khác như GS. Tạ Quang Bửu, GS. Lê Văn Thiêm, GS. Nguyễn Cảnh Toàn, GS. Phan Đ́nh Diệu,... xây dựng chiến lược phát triển toán học Việt Nam cho giai đoạn 1970–1990. Nhờ đó, chỉ trong ṿng 10 đến 20 năm, toán học Việt Nam đă có những tiến bộ đáng kể và một số lĩnh vực đă vươn lên và có uy tín cao trên thế giới. Để tiếp nối và hiện đại hoá, sau hơn hai năm chuẩn bị, gần đây Chương tŕnh trọng điểm quốc gia phát triển Toán học giai đoạn 2010 đến 2020 và Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán đă được Chính phủ phê duyệt. Trong suốt quá tŕnh đó, ban soạn thảo đă nhận được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của GS. Nguyễn Thiện Nhân, Phó Thủ tướng Chính phủ, GS. Phạm Vũ Luận, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT,...

Ngày hôm nay, chúng tôi đă được cùng đi với Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ (nay, năm 2016, là Thủ tướng Chính phủ), thay mặt Chính phủ, và GS. Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT, đến nhà riêng để chúc mừng GS. Hoàng Tụy, nhân dịp GS được trao Giải thưởng cao quư Constantin Caratheodory. Chúng tôi kính chúc Thầy khỏe mạnh, tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa cho toán học, khoa học, giáo dục và phát triển đất nước.

Trần Văn Nhung

27/9/2011

 

Ghi chú: Bài này đă được đăng trên Tạp chí Tia Sáng, ngày 28/9/2011.