| 
			 
			  
			
			Cuối tháng 8 năm 1965, chúng tôi rời 
			Hà Nội trên một chuyến tàu liên vận quốc tế lên đường sang các nước 
			bạn ở Đông Âu để học tập. Mỗi người ra đi đều có những tâm trạng 
			khác nhau. Háo hức, vui mừng vì được Nhà nước cử ra nước ngoài học 
			tập nhưng cũng day dứt vì  miền Bắc đã bước vào cuộc chiến đấu chống 
			chiến tranh phá hoại của quân xâm lược. Hàng ngày, máy bay Mỹ đã ném 
			bom xuống nhiều địa phương ở miền Bắc gây nên bao tổn thất về người, 
			tàn phá nhiều thành phố, thị xã, làng xóm… Ban bè cùng trang lứa với 
			chúng tôi đã lên đường chiến đấu, có người đã ngã xuống trên trận 
			địa… Lẽ ra mình cũng phải đứng trong đội ngũ lên đường ra mặt trân 
			cầm súng chiến đấu chống quân thù. Thế mà đường chúng tôi đi lại 
			ngược với đường ra mặt trận. 
			
			
			Chuyến tầu liên vân quốc tế chở gần 
			500 lưu học sinh và nghiên cứu sinh rời ga Hàng Cỏ vào chiều thu 
			tháng 8 năm 1965 ấy với bao lưu luyến của những người tiễn đưa. Dẫu 
			biết rằng họ sẽ đi đến một nơi bình yên để học tập nhưng trong khoé 
			mắt của những người thân vẫn đọng những giọt nước mắt vui buồn lẫn 
			lộn…  
			
			
			Tạm biệt Hà Nội, con tàu đưa chúng 
			tôi lao trong đêm hướng về biên giới Việt – Trung…Rạng sáng hôm sau, 
			chúng tôi có mặt tại ga Bằng Tường Trung Quốc, sân ga thoáng rộng và 
			lanh lảnh tiếng hát Hoa ngữ một âm điệu vui rộn ràng mà sau này 
			chúng tôi được biết đó là bài hát “Công xã là hoa hướng dương…”. Sau 
			khi hoàn thành thủ tục nhập cảnh, chúng tôi chuyển sang tàu hoả của 
			đường sắt Trung Quốc to rộng, hiện đại với các nhân viên phục vụ 
			chuyên nghiệp và nhiệt tình. Tàu chạy đưa chúng tôi xuyên suốt qua 
			các địa danh của đất nước Trung Hoa mênh mông: Vũ Hán, Trường Giang, 
			Bắc Kinh, Thiên Tân, Trường Xuân, Mãn Châu Lý… Tại biên giới Trung – 
			Xô chúng tôi chuyển sang tàu của hoả của Liên Xô và tiếp tục đi qua 
			Xibêri với hồ Baican, rừng Taiga hùng vĩ. Sau 10 ngày lắc lư theo 
			nhịp chạy của các con tàu Trung Quốc và Liên Xô, chúng tôi đã đến 
			Matxcơva – Thủ đô của Liên bang Xô viết (trước đây). Tại đây chúng 
			tôi được đón tiếp nồng nhiệt bởi các cơ quan hữu quan của Liên Xô, 
			Đại sứ quán Việt Nam, các Lưu học sinh và Nghiên cứu sinh Việt Nam 
			tại Mat scơ va. Chúng tôi được bố trí nghỉ tại khách sạn Antai gần 2 
			ngày sau một chặng đường dài. Có thể nói tâm trạng của mỗi người đều 
			như mơ khi đuợc đặt chân trên Hồng trường lịch sử, được vào Lăng 
			viếng Lênin vĩ đại, thăm mậu dịch  trung tâm GUM và CUM…là những nơi 
			mà trước đây chỉ được nhìn trên phim, ảnh hoặc nghe kể chuyện… 
			
			
			Sau mấy ngày nghỉ, Đoàn đi Ba Lan 
			tiếp tục lên đường sang nuớc bạn. Tháng 9 trời se lạnh, nắng vàng 
			óng ả. Tàu xuyên rừng bạch dương lá đã ngả màu vàng đỏ, thấp thoáng 
			những căn nhà gỗ truyền thống Nga ẩn mình trong không gian thanh 
			bình… Ai đó ngâm nga: “Em ơi! Ba Lan mùa tuyết tan… Đường bạch dương 
			sương trắng nắng tràn”.  
			
			
			Sáng sớm ngày 11 tháng 9 năm 1965, 
			tàu dừng bánh tại sân ga Vacsava, Bí thư  Đại sứ quán Việt Nam tại 
			Ba Lan, Đại diện Bộ Giáo dục Ba Lan và các anh “năm cũ” (tôi còn nhớ 
			năm đó tại Vacsava có các anh Thự, Thái, Phan Sinh và Đích) đều có 
			mặt, ùa đến tay bắt mặt mừng những lưu học sinh (LHS) mới đến từ 
			trong nước. Thế là chúng tôi đã đặt chân trên đất nước của F. 
			Chopin, M. Kopernik, Maria Curie – Sklodowska… 
			
			
			Đoàn LHS năm 1965 được chia làm 3 đơn 
			vị để đến  các thành phố Lodz, Krakow và Wroclaw  học tiếng Ba Lan 
			trước khi  vào đại học. Tôi được đến Krakow – kinh đô xưa của nước 
			Ba Lan, trong tôi lại vang vẳng mấy câu thơ của Tố Hữu: “Anh đã đến 
			quê em, Krakow… Như quê anh lỗng lẫy cung đền…”. Đơn vị của chúng 
			tôi có 60 người đều sàn sàn độ tuổi  mười tám, đôi mươi, có độ 10 
			người là cán bộ đi học nhưng cũng chỉ xấp xỉ dưới 30 tuổi. Năm đó, 
			để đáp ứng nhu cầu của Việt Nam, Bộ Giáo dục Ba Lan đã mở thêm hai 
			Trung tâm dạy tiếng Ba Lan tại Krakow và Wroclaw, đơn vị Krakow chia 
			thành 4 lớp và chúng tôi được học tiếng Ba Lan tại Đại học Tổng hợp 
			Jagiellonski – Nhà trường  đã có lịch sử trên 600 năm thành lập,  trường 
			đại học lâu đời nhất ở Châu Âu. Năm đó Ba Lan đã hồi phục sau 20 năm 
			của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, nhưng trong ký ức của 
			chúng tôi, Ba Lan đã là một đất nước phát triển, đời sống của nhân 
			dân được đảm bảo các nhu cầu của đời sống, thực phẩm, hàng hoá nhiều 
			và phong phú, môi trường trong lành, sạch đẹp, xã hội văn minh, 
			người dân lịch sự, cởi mở với người nước ngoài… 
			
			
			Sau những ngày nghỉ ngơi và khám lại 
			sức khoẻ, chúng tôi bước vào học tập. Vào thời kỳ đó, do nhu cầu đột 
			xuất, Trường Đại học Tổng hợp Jagiellonski đã bố trí một đội ngũ 
			giáo viên ngôn ngữ và tự nhiên để dạy chúng tôi tiếng Ba Lan và ôn 
			lại chương trình Toán, Lý, Hoá. Thầy không biết tiếng Việt, trò 
			không hiểu tiếng Ba Lan. Chúng tôi đánh vật với ngôn ngữ mới với 
			danh từ giống đực, giống cái, giống trung… rồi chia động từ, biến 
			đổi giống và số theo 7 cách trong ngữ pháp của tiếng Ba Lan. Hồi đó, 
			chúng tôi đều ý thức được trách nhiệm của mình trong học tập, không 
			ai ngủ trước 12 gìờ đêm, nằm trên giường vẫn lẩm nhẩm ôn lại các từ 
			mới học. Các thày giáo cô giáo Ba Lan rất trẻ trung có lẽ chỉ hơn 
			chúng tôi vài tuổi nhưng thật tuyệt vời về lòng nhiệt tình và trách 
			nhiệm với sinh viên Việt Nam, chúng tôi nhớ mãi và biết ơn các thày 
			Tadeusz Szyma, Andrzej Spyt và các thầy cô khác đã tận tâm dạy dỗ, 
			chăm sóc chúng tôi trong học tập và sinh hoạt. 
			
			
			Thấm thoắt đã hết khoá học tiếng kéo 
			dài 9 tháng, từ những ngày đầu chưa có khái niệm về tiếng Ba Lan, 
			sau khoá học hầu hết chúng tôi đã có thể giao tiếp thông thường với 
			người dân Ba Lan. Đã không ít lời ca ngợi thực lòng: “Ladnie mowi 
			pan po polsku!”. Chúng tôi nhận chứng chỉ tốt nghiệp khoá tiếng Ba 
			Lan và được phân về các thành phố như  Warszawa, Gdansk, Wroclaw, 
			Poznan, Lodz… để học đại học theo các ngành chuyên môn được Nhà nước 
			phân công. Tôi và 14 anh em khác được phân công ở lại Krakow theo 
			học tại Học viện Mỏ – Luyện kim Krakow (AGH). Tháng 10 năm 1966, 
			chúng tôi chính thức là sinh viên năm thứ nhất của Học viện AGH  
			theo học ngành cơ khí mỏ và luyện kim màu. Giờ đây, nhớ lại quãng 
			thời gian đó mặc dù đã gần 50 năm trôi qua nhưng trong tâm trí tôi 
			vẫn hiện lên rõ nét những ký ức của nhiều ngày tháng miệt mài đèn 
			sách, những kỳ thi căng thẳng, những đợt thực tập dưới hầm mỏ than, 
			trong nhà máy cơ khí, những đêm thức trắng bên đồ án môn học… có hôm 
			vừa rời giá vẽ bản thiết kế nhìn ra ngoài trời bình minh đã rạng, 
			bầu trời trong vắt, lấp lánh những tia nắng vàng rực rõ hoặc một màu 
			trắng xoá của lớp tuyết rơi dày đặc trong đêm. 
			
			
			Những năm tháng học tập tại Ba Lan đã 
			để lại trong tâm trí chúng tôi nhiều kỷ niệm đẹp không thể phai mờ. 
			Có thể nói cả tuổi thanh xuân chúng tôi đã được sống trên đất nước 
			Ba Lan tươi đẹp với những ngưòi dân giàu lòng nhân ái, đôn hậu và 
			trong tình cảm ấm áp, gần gũi, sự giúp đỡ chân tình của các giáo sư, 
			cán bộ giảng dạy nhà trường, bạn bè Ba Lan cùng học. Học viện AGH là 
			Trường đại học công lập kỹ thuật hàng đầu của Ba Lan có đẳng cấp 
			quốc tế vì  vậy các thế hệ người Việt Nam theo học tại đây được đào 
			tạo rất cơ bản các kiến thức nhờ đó mà sau này trở về nước công tác 
			họ đã được đánh giá cao về trình độ chuyên môn, nhiều người đã 
			trưởng thành nhanh chóng. Chúng tôi cũng có may mắn được sống tại 
			một đất nước có truyền thống văn hoá, nghệ thuật và khoa học vì vậy 
			còn học được thêm các kiến thức về văn hoá, xã hội, lịch sử, nghệ 
			thuật cũng như nét văn minh, phong cách sống của người Ba Lan, một 
			dân tộc có truyền thống kiên cường trong quá trình lịch sử phát 
			triển… Mỗi người đều có những kỷ niệm riêng, những cảm nhận của mình 
			trong suốt thời gian sống trên đất nước bạn nhưng có thể nói rằng 
			tất cả những ai đã sống, học tập tại Ba Lan đặc biệt vào những thập 
			kỷ 60, 70 của thế kỷ trước đều chung một tình cảm biết ơn sâu sắc 
			đối với nhân dân Ba Lan. 
			
			
			Tôi còn nhớ vào thời kỳ đó cuộc kháng 
			chiến chống Mỹ cứu nước của chúng ta được nhân dân tiến bộ, yêu 
			chuộng hoà bình trên toàn thế giới quan tâm, ủng hộ. Hàng ngày tin 
			chiến sự ở Việt Nam đều được các tờ báo trung ương và địa phương tại 
			Ba Lan đăng tải. Chúng tôi tìm đọc và qua đó biết tin tức ở quê nhà 
			và mặt khác nhờ đọc báo mà trình độ tiếng Ba Lan cũng dần được nâng 
			cao. Hồi đó, anh em chúng tôi được các tầng lớp xã hội Ba Lan mời 
			đến nói chuyện về Việt Nam, đặc biệt là các Trường học luôn là địa 
			chỉ mà chúng tôi thường xuyên có các buổi giao lưu gặp mặt. Trong 
			các buổi tiếp xúc với ngươì dân Ba Lan nhất là lớp ngưòi cao tuổi đã 
			trải qua chiến tranh, chúng tôi thấy họ rất quan tâm đén tình hình 
			chiến tranh ở Việt Nam, họ hỏi rất nhiều về cuộc sống, gia đinh, 
			phong tục tập quán, lịch sử của Việt Nam, họ bày tỏ sự thông cảm, 
			chia sẻ với chúng ta về những khó khăn gian khổ đang gặp phải trong 
			cuộc chiến tranh khốc liệt… Chúng tôi đã đến nhiều địa phương ở phía 
			Nam Ba Lan như  Katowice, Zakopane, Rzeszow, Nowy Sad, Tarnow, 
			Kielce… ở đâu chúng tôi cũng được đón tiếp thân tình, nồng hậu.  
			
			
			Đối với tôi, ấn tượng sâu đậm nhất có 
			lẽ là tình cảm của những người dân Ba Lan bình thường mà hàng ngày 
			mình tiếp xúc như bà thường trực nhà ở sinh viên, người phục vụ điện 
			nước, các nhân viên thư viện, người bán hàng thực phẩm… Các bà 
			thường trực nhà sinh viên thường đã nghỉ hưu, họ làm thêm công việc 
			thường trực để có thêm thu nhập. Nhóm sinh viên chúng tôi khi bước 
			vào năm thứ nhất được bố trí ở Block 4 Làng sinh viên, đây là một 
			quần thể các nhà ở sinh viên, khu thể chất, dịch vụ, vui chơi giải 
			trí khép kín và hiện đại nhất dành cho sinh viên của TP. Krakow. Có 
			lẽ là lần đầu tiên được tiếp xúc với người Việt Nam, mà theo sự hiểu 
			biết của các bà, Việt Nam là nơi đang có chiến tranh khốc liệt như 
			Ba Lan trong chiến tranh thế giới lần thứ hai nên họ luôn dành cho 
			chúng tôi những tình cảm ân cần, thân thiết như người Mẹ hiền ở quê 
			nhà. Biết chúng tôi mong chờ thư của người thân từ trong nước, các 
			bà đã cất giữ cận thận những bức thư từ Việt Nam gửi sang và trao 
			tận tay cho người nhận. Ngày ấy, Đoàn LHS thường tổ chức sinh hoạt 
			chính trị vào các ngày nghỉ và nhiều khi họp hành rất khuya khi trở 
			về nhà sinh viên thường quá giờ quy định nhưng các bà vẫn vui vẻ mở 
			cửa và không quên chúc chúng tôi Dobranoc -  Chúc ngủ ngon! Vào thời 
			kỳ đó, trong bản tin thời sự lúc 19h của Vô tuyến truyền hình Ba Lan 
			thưòng có tin chiến sự ở Việt Nam. Tuy đứng trong buồng thường trực 
			nhưng các bà vẫn chú ý lắng nghe tin tức từ Việt Nam và hỏi chúng 
			tôi về tình hình gia đình, về quê hương nơi chúng tôi có người thân 
			rằng ngày hôm đó có bị máy bay Mỹ ném bom không? Sự quan tâm của họ 
			đã làm chúng tôi vô cùng xúc động, các bà thường tâm sự là lứa tuổi 
			của họ đã trải qua chiến tranh nên rất hiểu và chia sẻ, thông cảm 
			với các bạn Việt Nam. Tôi thường xuyên nói chuyện với các bà để trau 
			dồi thêm tiếng Ba Lan vì vậy có được sự thân tình, gần gũi… Thấp 
			thoáng thấy bóng tôi ngoài khung cửa nếu có thư từ Việt Nam đến là 
			các bà đã cầm sẵn trong tay và vui vẻ trao cho: “ Ma pan list z 
			rodziny“ – Anh có thư từ gia đình, và không quên dặn nếu có tin tức 
			gì vui buồn ở quê nhà nhớ kể lại cho các bà biết. Trong số các bà 
			thường trực ở Block 4, tôi thân nhất với bà Monika, bà có khuôn mặt 
			thật là phúc hậu, lúc nào cũng ân cần, lịch sự. Có hôm bà còn giúi 
			vào tay tôi ổ bánh ngọt thơm lừng do tự tay bà nướng và bảo anh hãy 
			thử ăn  bánh của tôi làm có ngon không? Tôi biết bà đã coi tôi như 
			người thân và muốn dành cho tôi tình cảm của người mẹ Ba Lan thay 
			cho bà mẹ Việt Nam ở nơi xa xôi… Giờ đây khi viết những dòng này 
			trong tâm trí tôi vẫn hiện rõ nét khuôn mặt các bà mẹ Ba Lan làm 
			công việc thường trực nhà sinh viên nơi chúng tôi sinh sống gần 6 
			năm trời: Bà Monika hồn hậu, bà Krystyna dong dỏng cao vui tính, bà 
			Jadwiga nghiêm khắc tưởng như khó gần nhưng đối với sinh viên Việt 
			Nam lúc nào cũng nhiệt tình, vui vẻ. Những năm sau này khi có dịp 
			quay lại Krakow tôi đều dành thời gian về thăm lại chốn xưa nơi đã 
			sống để tìm lại những người quen biết… Đâu rồi những cụ bà đôn hậu 
			làm công việc thường trực? Nơi kia có phải trước đây là cửa hàng 
			thực phẩm nhỏ mà mỗi ngày thứ bảy mình vẫn vào mua rau quả, thực 
			phẩm về nấu ăn? Cảnh sắc nơi chúng tôi đã sống có quá nhiều thay đổi 
			theo năm tháng nhưng ký ức cứ hiện về dào dạt… Những người  Ba Lan 
			bình thường, giản dị nhưng tấm lòng của họ đối với sinh viên Việt 
			Nam thật ấm áp, thân tình. Thời đó không thể nào quên trong sâu thẳm 
			trái tim của những sinh viên Việt Nam chúng tôi về sự giúp đỡ quý 
			báu của Ba Lan, nơi họ được các Trường đại học đào tạo thành những 
			người có kiến thức khoa học – kỹ thuật. 
			
			
			Giờ đây, với sự thay đổi của thời 
			gian có thể tình cảm của ngưòi Ba Lan đối với cộng đồng người Việt 
			tại Ba Lan có khác đi theo cơn lốc của nền kinh tế thị trường nhưng 
			đối với thế hệ chúng tôi tuy tóc đã điểm bạc vẫn nhớ về một thời mà 
			tình người thật nồng ấm. 
			
			
			Để kết thúc những hoài niệm này,  với  
			lòng biết ơn chân thành nhất đối với nhân dân Ba Lan, xin được nói 
			bằng tiếng Ba Lan: “Dziekujemy Tobie, Polsko!” - Chúng tôi xin cám 
			ơn Người, Ba Lan ơi! 
			
			Hà 
			Nội, ngày 23/5/2012 
  
			 |