Quê quán: Phong Điền, Thừa
Thiên - Huế.
Quá trình công tác:
1954: Cán bộ giảng dạy Khoa
Toán-Lý, Trường Đại học Sư phạm.
1961: Phó Chủ nhiệm Khoa
Toán-Lý, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Phó Hội trưởng Hội Vật lý Việt Nam.
1962: Chủ nhiệm Khoa
Toán-Lý, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được nhận học vị Tiến sỹ.
1980: Được phong hàm
Giáo sư.
Hướng nghiên cứu khoa học:
Lý thuyết trường.
Hạt cơ bản.
Các phương pháp Toán-Lý.
Một số kết quả nghiên cứu:
Sáng lập và lãnh đạo nhóm
Nghiên cứu Vật lý cơ bản, đào tạo được nhiều nhân tài cho đát nước.
Viết được nhiều giáo trình
hiện là những sách giáo khoa kinh điển của Khoa Vật lý, như “Cơ học Lượng
tử” (1977), “Lý thuyết nhóm và ứng dụng trong vật lý lượng tử” (1972), “Cơ
học lý thuyết” (1977).
Khen thưởng:
Nhiều năm được bầu là lao
động tiên tiến, chiến sỹ thi đua.
Huân chương Kháng chiến
hạng Nhất.
Danh hiệu Nhà giáo ưu tú
(1990).
PGS.NGƯT Nguyễn Hoàng Phương từ giã chúng ta để đi vào cõi vĩnh hằng đã gần
được 2 năm, nhưng để hiểu và đánh giá đúng về ông, về những công trình của
ông, chắc chắn còn đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều nghiên cứu kiểm nghiệm.
GS.
Nguyễn Hoàng Phương sinh năm 1927. Ông từng là chiến sĩ biệt động hoạt động
ở thành phố Huế. Năm 1949, được cử đi đào tạo khoa học cơ bản và sau đó tiếp
tục ở lại giảng dạy ở Khu học xá (Nam Ninh, Trung Quốc). Khi tiếp quản Thủ
đô, ông về dạy ở Trường Đại học Sư phạm, và vào tháng 9.1956, khi Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc ĐHQGHN)
được thành lập, ông đã có mặt ngay từ những ngày đầu tiên với tư cách người
thầy. Lúc đầu, ông được cử làm Tổ trưởng Bộ môn Vật lý của Khoa Tự nhiên và
trực tiếp giảng dạy các môn Toán cao cấp và Vật lý. Sau khi Khoa Tự nhiên
tách thành các khoa Toán, Lý, Hóa..., ông được cử làm Chủ nhiệm Khoa Vật lý.
Bên cạnh các tên tuổi bậc thầy về vật lý như GS. Ngụy Như Kontum, ông được
coi là con chim đầu đàn của ngành Vật lý Việt Nam, là thầy của hầu hết những
nhà vật lý tiếng tăm. Một người thầy hào hoa, uyên bác, đầy nhiệt huyết và
rất yêu thương sinh viên. Ông còn là một nhà giáo có tài năng sư phạm lỗi
lạc của nước ta. Những vấn đề toán học khô khan, những lĩnh vực lắt léo của
Vật lý lý thuyết, qua những lời giảng giải khúc triết của ông, chúng trở nên
sống động, dễ hiểu và vô cùng dễ nhớ. Chỉ riêng những vấn đề ông đã viết ra,
in rồi hoặc chưa in, với mỗi quyển trên dưới một ngàn trang, cũng đáng để
cho người đời, nhất là những người đã từng biết những khó khăn khi cầm bút,
phải nghiêng mình thán phục.
Sự ham
hiểu biết và thú say mê làm việc là những tố chất ưu việt đã được ông gìn
giữ cho đến những "giây phút cuối cùng của cuộc đời", theo đúng nghĩa đen
của cụm từ này. Trong những năm ở số 16, Hàng Chuối, không mấy ai trong
ngành toán lý chúng ta chưa được nhìn thấy ông suốt ngày miệt mài bên chiếc
máy chữ cũ kỹ đặt bên cửa sổ. Những quyển sách ông đã đọc qua, không mấy
trang không có bút tích của ông để lại. Ông chăm chú lắng nghe những xêmina
về Toán - Lý cho dù người trình bày chỉ vào loại học trò nhỏ bé của mình.
Mọi thông tin khi lọt vào đầu ông, chúng đều được xử lý, sắp xếp theo cách
tư duy của ông, cho nên, mọi điều ông viết ra, dù là những điều ai ai cũng
biết, nhưng chúng đều có những sắc thái rất riêng chỉ mình ông mới có.
Ngày
22.3, một ngày trước khi đi xa, ông còn nhờ một người học trò cũ của mình
photo quyển "Lý thuyết phạm trù" của B. Michell để ông nghiền ngẫm.
Ông muốn tìm trong lĩnh vực trừu tượng nhất của toán học những phương cách
để ông có thể diễn đạt được các đặc tính tinh tế nhất của thế giới vật chất.
Ngày hôm sau, chỉ mấy giờ trước lúc ra đi, khi nhận được chương đầu tiên,
ông còn phàn nàn sao không photo ngay cho ông cả quyển.
Hình
ảnh ông với mái tóc dài bạc trắng, với đôi mắt thông minh, với nét mặt đôn
hậu hóm hỉnh, với dáng đi nhanh nhẹn không hề mang dấu vết của tuổi tác, với
cách bỡn cợt với bệnh tật của chính mình... vẫn còn in đậm trong tâm trí của
bạn bè, học trò và cả những người chỉ biết ông qua một lần được nghe ông nói
chuyện.
Ông là
một trong số ít người đoán trước được vận mệnh của riêng mình. Ông nói ra
điều đó một cách rất hồn nhiên, ông hoạch định từng chi tiết cho lễ tang của
mình. Việc ra đi được ông hiểu đơn giản như việc tìm về nhà sau một cuộc
viễn du mệt mỏi.
Những
nghiên cứu khoa học của ông có thể tạm phân làm ba lĩnh vực: Toán - Lý,
Trường sinh học và Tâm linh.
Năm
1959, trong khi nền giáo dục đại học của chúng ta mới chập chững những bước
đầu tiên, cơ sở vật chất, sách vở còn rất thiếu thốn, với cương vị coi sóc
Khoa Vật lý, ông đã nỗ lực hết mình, vừa tạo điều kiện để học trò học thật
tốt, vừa tự mình mày mò nghiên cứu khoa học để làm gương cho thế hệ đàn em.
Ông đã lập nên nhóm nghiên cứu Vật lý lý thuyết, gồm những người tâm huyết
từ các cơ sở nghiên cứu khác nhau nhưng có chung một niềm đam mê Vật lý.
Nhóm này hoạt động khá đều đặn và có hiệu quả. Các thành viên trong nhóm,
nhiều người đã thành danh, là những phó giáo sư, giáo sư, tiến sĩ, tiến sĩ
khoa học, viện sĩ, những trụ cột vững chắc cho các tổ chức vật lý của đất
nước chúng ta.
Cũng
trong thời kỳ này, ông đã có phát kiến trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý cơ bản. Ông đề xuất một mô hình, trong đó không thời
gian vật lý được mở rộng từ 4 thành 6 chiều và nhờ các chiều phụ, ông đã có
những kiến giải rất có sức thuyết phục về đặc trưng nội tại của các hạt cơ
bản. Phát kiến này đã giúp ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Luận án: "Vật
chất trong không gian sáu chiều" được ông viết một mình, và là luận án
tiến sĩ đầu tiên về Vật lý của nước Việt Nam mới. Luận án này được
ông bảo vệ thành công ở Liên Xô.
Ngoài
giảng dạy và lãnh đạo Khoa, ông còn dành nhiều thời gian để viết sách và đã
có rất nhiều sách chuyên khảo có giá trị. Quyển "Lý thuyết nhóm và ứng
dụng vào Vật lý học Lượng tử", in khổ rộng với hơn 500 trang, hiện vẫn
là quyển chuyên khảo đầy đủ duy nhất về lĩnh vực này ở Việt Nam. Quyển "Nhập
môn Cơ học lượng tử - cơ sở và phương pháp (Tích hợp Toán - Lý - Hóa)",
với gần 800 trang in khổ lớn, cũng là một quyển sách tham khảo rất có giá
trị cho sinh viên các trường đại học. Ông cũng có quyển sách viết bằng ngôn
ngữ phổ thông về A. Einstein, một quyển sách rất truyền cảm được độc giả đủ
mọi lứa tuổi đánh giá cao và được tái bản nhiều lần, ngay cả sau khi ông đã
mất.
Một
lĩnh vực rất mới mẻ, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, đó là
lĩnh vực Trường sinh học, cũng được ông dành cho nhiều tâm huyết. Đây là
lĩnh vực rất kỳ bí, còn xa lạ với các công cụ khoa học Toán - Lý đương thời.
Hiện nay, khoa học vẫn đang kiên nhẫn xem xét và chỉ có trong tương lai xa
mới hy vọng có lời phán quyết đúng đắn.
Vào
những năm khó khăn của thời bao cấp, khi người bạn đời thân thiết, hiểu ông,
yêu ông và tận tụy vì ông đột ngột qua đời, ông rơi vào trạng thái hẫng hụt.
Các cố gắng bấu víu vào cuộc đời thường đều không mang lại cho ông sự yên
lành cần thiết về cả tinh thần lẫn vật chất. Bạn bè, đồng nghiệp đã khuyên
ông đi chuyên gia châu Phi, bởi vì, lúc bấy giờ, đây là giải pháp duy nhất
phù hợp với khả năng hiểu biết cuộc sống đời thường của ông. Ông đã nghe, đã
làm đủ mọi thủ tục cần thiết và chỉ chờ ngày xuất phát. Nhưng tiếc thay, đến
phút cuối ông đột ngột thay đổi quyết định. Lý do duy nhất kéo giữ ông ở
lại, đó là, muốn dùng khả năng ngoại cảm của một số người để tìm tòi tài
nguyên cho đất nước.
Đây là
những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đời ông. Khó khăn đó không chỉ vì vật
chất thiếu thốn, mà ở ngay cả lĩnh vực tinh thần. Như đã nói ở trên, tiềm
năng ngoại cảm của con người luôn là một lĩnh vực bí hiểm và rất dễ lợi
dụng. Sự thơ ngây của ông trong cuộc sống đời thường đã mang lại cho ông
không ít những hệ lụy. Đánh giá đúng về những đóng góp của ông trong lĩnh
vực này còn cần có thời gian. Nhưng một người bạn cũ tâm huyết của ông đã
nhận xét, nếu trong tương lai, tiềm năng ngoại cảm con người được chứng minh
là đúng đắn, vị trí của ông trong lĩnh vực này sẽ rất lớn.
Nếu
lĩnh vực Trường sinh học tuy kỳ lạ nhưng phần nào còn có thể nhận thức được,
thì lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực mà ông say mê cho đến cuối đời, vẫn còn là
bí ẩn và khó hiểu hơn nhiều. Là một người am tường đại số, ông luôn mong
muốn tìm ra những quy luật chung nhất không chỉ của thế giới tự nhiên mà còn
của thế giới tâm linh, tức là thế giới ý thức của con người. Một trong những
di sản vĩ đại của người xưa trong lĩnh vực này là "Kinh dịch". Ông đã
nhìn thấy trong "Kinh dịch" quy luật chi phối xã hội và chi phối tự
nhiên, thậm chí cả quy luật sản sinh ra các chủng loại người trên hành tinh
của chúng ta. Khác với những người học dịch trước đây, thường chỉ dựa vào
những phán xét của người xưa để luận bàn và thêm thắt, ông đọc dịch trên cơ
sở liên hệ nó với quy luật của đại số học, và do đó, ông đã làm một việc
chưa từng ai dám làm trừ đức Khổng Tử, đó là sắp xếp lại "Kinh dịch".
Với việc tìm cỗ máy thiên cơ trong "Kinh dịch", tức là tìm ra quy
luật sắp xếp thích hợp cho từng thời kỳ của 64 quẻ, ông đã chỉ ra cách dự
báo có tính xác thực hơn. Ông khẳng định rằng: "Bài toán giải mã số thứ
tự các quẻ (tự quái) là một trong những
bài toán hóc búa
nhất, hiểm trở nhất của Dịch lý trên cả toàn cầu và toàn lịch sử loài người,
mãi cho đến nay mới bắt đầu thực hiện rõ ràng, cụ thể được. Những giải mã
này cho phép khôi phục lại vị trí học thuyết siêu thống nhất phổ quát nhất
về nhân văn học, và hơn nữa vị trí giao lưu văn minh vũ trụ, hội nhập vũ trụ
nay mai". Ông
ghi chép những kết quả của mình trong một số cuốn sách: "Những cơ sở của
Triết học phương Đông và Tập mờ, Đông và Tây", in bằng tiếng Anh, khổ
lớn, dày 200 trang
(Oriental
Philosophy Fundamentals and Fuzzy Set, East and West) và cuốn "Tích hợp
đa văn hóa Đông - Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai" in khổ lớn
dày tới gần 1.200 trang, với các thuật ngữ vừa cổ kính vừa huyền bí mà còn
lâu mới có thể hiểu và đánh giá chính xác đúng sai. Những suy tư của ông
trong những năm cuối đời được ông ghi chép thành 5 tập còn đang chờ để được
xuất bản.
Với 77
năm trong "khí hồng trần", những điều ông thu được trong các lĩnh vực thuộc
khoa học tự nhiên và xã hội là rất đáng khâm phục. Nó chứng tỏ ông có bộ óc
siêu việt mà trình độ khoa học đương đại chưa thể có phán quyết đúng sai có
tính thuyết phục.
Ngoài
đời ông là một người lãng mạn, chơi ghi ta rất cừ, rất thích đàm đạo, thương
người và sống rất có tình. Trong con người khoa học của ông là một trái tim
nhân hậu.
Là một
kẻ hậu sinh, tuy cùng nghề, nhưng tôi chưa bao giờ dám đánh giá đúng - sai
những điều ông đã viết. Mấy dòng này xin được xem là những nén tâm hương
kính dâng lên hương hồn ông, nhân ngày giỗ thứ hai của ông./.
Phạm Thúc Tuyền
Theo [100 Years-VietNam National University, Ha Noi]
TB. Tác giả Phạm Thúc Tuyền đã trực tiếp nói với Admin
là Chức danh của ông Hoàng Phương là Giáo sư chứ không phải là Phó Giáo sư
như đã in trong tác phẩm "100 chân dung một thế kỷ Đại học quốc gia Hà Nội"
(100 Years-VietNam National University, Ha Noi)
Xem thêm:
Lá
số tử vi có đoán được vận mệnh không? - KH&ĐS
Xem tuổi, xem ngày định tháng là việc quan trọng, là một nét văn hoá riêng biệt
|