Home | Giới thiệu | Lịch sử | Thành tích | Học sinh | Album Ảnh | Videos | Phần mềm | Tài liệu | Giải trí | Liên kết

 

Mừng thọ thầy Phan Đức Chính 70 tuổi

 

Nguyễn Duy Tiến

Khoa Toán-Cơ-Tin học

Hà Nội ngày 16-06-2006

 

Thầy Phan Đức Chính sinh ngày 15/09/1936, tại Sài Gòn. Quê Ông là làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, một làng cổ ven đê sông Hồng với nhiều dòng họ nổi tiếng như: họ Phạm (làm quan), họ  Hoàng (trí thức), họ Nguyễn (nhà vua) và họ Phan. Cụ tổ của dòng họ Phan ở đây là Phan Phù Tiên gốc Hà Tĩnh, ra lập cư tại đất này cách đây vào quãng 600 năm. Thân phụ của thày Chính là cụ ông Phan Tiến Chác, cụ bà Vương Thị  Nhã.  Hai cụ có 8 người con, 4 trai và 4 gái (thày Chính là con thứ hai). Cụ Chác là công chức cũ (thời Pháp), có công nuôi dấu cán bộ Cách mạng tại Hà Nội trong thời kỳ tạm chiếm.

Từ  1952-1954, ông Chính học trung học tại Albert Sarraut (trường Pháp danh giá nhất thời đó), tốt nghiệp đại học Sư phạm Khoa học năm 1956 khi Ông tròn 20 tuổi.

Sau khi tốt nghiệp đại học, Ông là cán bộ giảng dạy Toán học tại Đại học  Sư phạm  Khoa học. Năm 1956, Đại học Tổng hợp Hà nội được thành lập (tách ra từ Đại học Sư phạm Khoa Học), Ông thuộc biên chế khoa Toán - Lý, Đại học Tổng hợp Hà nội.

Năm 1961 ông Chính được nhà nước Việt Nam gửi sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh dưới sự hướng dẫn của nhà toán học nổi tiếng G. E. Shylov, bảo vệ luận án phó tiến sỹ (nay là tiến sỹ) Toán- Lý năm 1965 tại đại học danh tiếng Lomonosov (Moskva). Năm đó Ông mới 29 tuổi.

Năm 1965 Ông trở lại Việt Nam, tiếp tục giảng dạy tại khoa Toán Đại học Tổng hợp Hà Nội (trưởng khoa là thày Hoàng Tuỵ). Thời kỳ này là giai đoạn vô cùng khó khăn của đất nước trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phải đi sơ tán tại Đại Từ (Bắc Thái). Tất cả các lớp học lúc đó đều ở sát núi Tam Đảo,  rất đơn sơ và tạm bợ, thiếu thốn tất cả mọi phương tiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cùng về công tác với Ông lúc đó còn có các thày: Nguyễn Trường,  Trần Vinh Hiển, Phan Văn Hạp, Nguyễn Hữu Ngự, Đào Huy Bích, Nguyễn Bá Hào, Hoàng Hữu Như, Nguyễn Thừa Hợp, Phạm Ngọc Thao (về sau một vài năm). Đấy là lớp tiến sỹ đầu tiên được đào tạo rất cơ bản từ đại học tổng hợp Lomonosov về nước phục vụ sự nghiệp giáo dục trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Thày Chính được phân về tổ Giải tích (tổ trưởng là thày Hoàng Hữu Đuờng (1936 – 1987)), giảng dạy giải tích cho sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai, và Ông (là một trong các thầy đầu tiên) dạy đại số cho lớp Chuyên toán đầu tiên của Việt Nam. Trong nhiều năm sau đó,  Ông vẫn tiếp tục các công việc này một cách say sưa và đạt được nhiều kết quả rực rỡ. Ngoài ra,  Ông còn giảng dạy giải tích hàm và nhiều chuyên đề khác như : Lý thuyết nhóm, Hàm suy rộng, Độ đo và tích phân.

Ông là người đầu tiên nghiên cứu độ đo, phiếm hàm tuyến tính và toán tử tuyến tính đo được trong không gian tuyến tính vô số chiều. Các kết quả chính của Ông đã được đưa vào sách chuyên khảo:

G. E. Shylov, Phan Duc Chinh

Measure, Integral, Derivative  in Linear Spaces

Nauka, 1967 (tiếng Nga)

Cuốn sách chuyên khảo này (có lẽ là sách toán đầu tiên có tác gỉa người Việt) đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Tiệp và được nhiều nhà toán học trích dẫn.

Tôi và một số đồng nghiệp (là cán bộ trẻ của khoa Toán lúc đó) đã được thày Chính giảng về: Lý thuyết phổ toán tử tuyến tính, Nửa nhóm và quá trình Markov dưới tiếng máy bay Mỹ đang oanh tạc khu Gang thép Thái Nguyên giữa trưa hè nóng bức, bên dòng suối của xóm Cầu Găng (Đại từ, Bắc Thái). Ông giảng bài rất say sưa, rõ ràng, chính xác. Ông không có giọng nói hùng biện, đôi khi còn nói lắp, nhưng mọi người đều hiểu Ông đang nói gì. Dáng người Ông gày gày, hơi gù, cao chừng 1m61, nặng quãng 45kg, đeo kính cận nhẹ. Người nghe bị cuốn hút bởi bài giảng của Ông vì tính khoa học, hiện đại và đặc biệt là nhiều ý tưởng. Tôi nghĩ rằng thày Chính là nhà sư phạm xuất sắc vì sau khi nghe bài giảng của Ông, người nghe cảm thấy có thể làm thêm một điều gì đó.

Có thể nói, những điều tâm huyết về giải tích hàm Ông đã viết trong cuốn sách của mình:

Giải tích hàm, tập I

Cơ sở Lý Thuyết

NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1974

Tôi cho rằng đây là cuốn Giải tích hàm đầu tiên và hay nhất bằng tiếng Việt, đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị và được dùng làm tài liệu giảng dạy và nghiên cứu cho hầu hết các trường đại học Việt Nam. Thế nhưng, có lần (năm 1998) tôi đề nghị Ông  tái bản sách này thì Ông bảo: “theo mình thì cần phải viết lại, vì có nhiều kết qủa mới cần đưa vào, một số kết quả trong sách đã lạc hậu”. Đúng là nhà sư phạm bậc thầy. Ông đăng không nhiều, nhưng các kết quả của Ông được nhiều người biết đến. Sách của Ông được cân nhắc, suy nghĩ kỹ rồi mới viết ra trong sáng và mạch lạc.

Trong nhiều năm dạy khối Phổ Thông Chuyên Toán, Ông đã đào tạo được nhiều học sinh xuất sắc, đạt được các giải cao trong các kỳ thi Toán Quốc tế.  Một số học sinh cũ của Ông sau này đã trở thành những nhà khoa học giỏi, những nhà quản lý tốt, trong số đó có  các anh chị: Trần Văn Nhung, Đào Trọng Thi, Hoàng Lê Minh, Nguyễn Đông Anh, Hoàng Ngọc Hà, Phan Vũ Diễm Hằng, Nguyễn Thị Thiều Hoa, Lê Hồng Vân…. Có thể nói, Ông là một trong những thày có nhiều công sức nhất làm  cho khối Phổ Thông Chuyên Toán (ĐHQGHN) nổi tiếng khắp nơi và trở thành đơn vị Anh Hùng (thời kỳ đổi mới).  Ngày nay, tất cả các thày giáo  trọng trách của khối như Nguyễn Vũ Lương, Phạm Văn Hùng, Đỗ Thanh Sơn (là những học sinh cũ của thày Chính) luôn luôn ngưỡng mộ, tôn kính và ghi nhận sự đóng góp to lớn của Ông. Đặc biệt, thày Chính đã truyền lại cho họ nhiều kinh nghiệm quí báu để luỵện thi và dẫn dắt đội tuyển học sinh toán Việt nam ra nước ngoài tham gia các kỳ Olympiad thế giới.

Kết quả đáng chú ý nhất của Ông trong lĩnh vực giảng dạy chuyên toán là cuốn sách:

Bất đẳng thức

NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1973

Ông còn là dịch giả của nhiều cuốn sách về giải tích:

1. Natanson, Lý thuyết Hàm số biến số thực, 1962.

2. Dieudonné J., Cơ sở Giải tích Toán học, Tập I – V.

3. Robertson., Robertson., Khong gian vectơ tôpô.

4. Kurosh, Đại số cao cấp.

5. She-Tzen Hu, Cơ sở Giải tích toán học.

Và một số cuốn sách khác.

Tôi nghĩ rằng Ông Chính là người được đào tạo bài bản nhất về Giải tích, tiếp thu được những tinh hoa của hai nền toán học kiểu mẫu: Nga và Pháp. Tất nhiên, Ông rất thành thạo tiếng Pháp, biết tiếng Anh và tiếng Nga khá tốt. Ngoại ngữ đã giúp Ông mở rộng tầm hiểu biết và có nhiều quan hệ quốc tế tốt. Thật vậy, Ông thừa kế những kiến thức tinh hoa nhất của nền giáo dục trung học nước Pháp, Ông đến Moskva và sống ở đấy trong những năm 60 của thế kỷ trước, thời kỳ này ở nước Nga nền Toán học đang phát triển và thu được những kết quả rực rỡ. Sống và làm việc trong một môi trường khoa học sôi động của thời kỳ Kolmogorov, Gelfand, Novikov, Arnold, Dynkin, Gnedenko, Shyriaev … ông Chính phải học tập cật lực, nghiêm túc.  Thời kỳ đầu làm nghiên cứu sinh thày giáo hướng dẫn bắt Ông phải giải rất nhiều bài tập. Ông tâm sự với tôi: “Lúc đầu mình rất khó chịu, có lẽ thày giáo hơi xem thường mình nên chỉ bắt mình làm bài tập mà không giao ngay một đề tài nghiên cứu cụ thể. Nhưng nhờ thế mà sau này mình nắm vững các kiến thức học được và khi có đề tài mình đủ tự tin để giải quyết và phát triển”.

Thời kỳ ở khoa Toán, Ông tiếp xúc và làm việc với những giáo sư có uy tín và  uyên bác như: các giáo sư Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Hoàng Hữu Đường, Nguyễn Thừa Hợp, Nguyễn Bác Văn, với nhiều cán bộ trẻ có trình độ khao khát cái mới, với nhiều học sinh, sinh viên xuất sắc,  nên Ông phải làm việc rất sáng tạo, đọc nhiều, viết nhiều và cái chính là Ông biết đào tạo lại mình. Ông đã có dịp làm việc với một số nhà toán học hàng đầu thế giới như: Laurent Schwartz, Grothendieck …  nhờ thế Ông học hỏi được nhiều, khiêm tốn và tinh đời hơn.

Về con người,  Ông là nhà giáo nhân hậu, nhà sư phạm uyên thâm, người bạn chân tình và dễ  trao đổi.  Ông có thói quen hút thuốc, uống rượu, thích nghe và kể chuyện tiếu lâm. Tôi còn nhớ những năm sơ tán gian khó ở Việt Bắc, chiều chiều Ông và ông Phạm Ngọc Thao thường đến thăm nhau, đàm đạo với nhau nhiều chuyện về toán và thơ. Lúc đó ông Thao bị ngã nên khó đi lại, thế mà vẫn liêu xiêu bước đi trên con đường ruộng đến thăm ông Chính. Năm 1977 ông Đặng Đình Áng, ông Tôn Thất Long từ Sài Gòn đến thăm tôi ở 34 Điện Biên Phủ, Hà Nội; ông Chính và tôi đã tiếp hai vị giáo sư này rất chân tình và cởi mở. Ông Chính mang theo một phin pha cà phê đặc biệt (của Hungary). Nhìn Ông hút thuốc và uống cà phê tôi thấy đẹp làm sao! Cả bốn chúng tôi đều uống rượu Bắc Hà ngon tới mức ông Long phát khóc, ông Áng quên đường vào nhà. Ông Chính và tôi thì say sưa kể những chuyện thời trai trẻ. Một lúc sau thì anh Đặng Hùng Thắng tới, lấy làm ngạc nhiên vì thấy ông Áng nằm trên giường ngủ say, ông Long đang khóc, Ông Chính và tôi đang nói cười vui vẻ. Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến giai thoại do ông Nguyễn Khắc Phúc (1935 - 2005)  kể, lúc chúng tôi làm nghiên cứu sinh ở Tbilisi. Chuyện rằng, thời trẻ ông Chính và một nữ sinh (người Huế) có cảm tình với nhau. Trước lúc lên đường đi Nga hai người có gặp nhau. Khi chia tay,  nữ sinh này nói với ông Chính rằng: “Em thương anh lắm”. Ông Chính lấy làm đau khổ, vì nghĩ rằng cô ấy chỉ thương mình chứ không yêu mình. Một hôm, khi nhận được tin cô bạn đã đi lấy chồng, ông Chính tâm sự chuyện trên với một người bạn (người miền Nam) đang làm nghiên cứu sinh cùng thời Ông. Ông bạn này sau khi nghe chuyện  lấy làm tiếc và nói rằng: “Mày thật ngốc, con gái miền Nam nói thương là yêu”!!!

Năm nay (2006) thày Chính đã tròn 70 xuân, vợ thày là bà Lê Mỹ Hạc,  có 2 con trai, 3 cháu nội, sống ở ven Hồ Tây thanh bình. Thày đã yếu nhiều, nhưng rất minh mẫn, vẫn thích hút thuốc và uống rượu vang. Ngày trước gia đình thày sống ở phố 10 Đỗ Hạnh, cạnh phố Vũ Lợi, nơi nhạc sĩ Văn Cao (1923 - 1995) sống những năm gian khó nhất. Thày Chính kể rằng Ông vẫn thường hay sang chơi, cùng uống rượu và nghe Văn Cao đàn (có lần nhạc sĩ Văn Cao nhận xét, nhờ nói chuyện với ông Chính mà nhạc sĩ hiểu rằng các nhà toán học không khô khan như nhiều người vẫn tưởng) . Đôi lúc tôi nhìn thày Chính thấy có những nét hơi giống Văn Cao, cũng cái dáng gày gày, tóc hơi dài, lưng hơi gù, thích uống rượu và yêu đời bằng Nhạc-Thơ-Toán, không tham chức quyền, không hay xuất hiện truớc các phương tiện truyền thông, không phát biểu đại ngôn. Ông là người thày mẫu mực của nhiều thế hệ, yêu nghề, yêu nước, yêu trò, kính trọng thày và thế hệ đi trước, dễ gần gũi, có nhiều bạn. Thày Chính được phong Phó Giáo Sư (năm 1980), danh hiệu Nhà Giáo ưu Tú (năm 1994), Huân Chương Lao Động hạng ba (năm 1999) và  Huân Chương Lao Động hạng hai (năm  2003).

Tổ Giải tích, Khoa Toán - Cơ - Tin học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội rất tự hào là tổ ấm của nhiều nhà toán học giỏi, của những người thày tâm huyết. Năm nay, kỷ niệm ngày thành lập  trường Tổng hợp lần thứ 50, chúng tôi những người thuộc thế hệ toán học thứ hai, luôn ghi nhớ công lao của các thày, các anh thuộc thế hệ thứ nhất  (trong đó có thày Chính) và nghĩ  rằng:

Thế hệ thứ nhất (giai đoạn 1947-1964) dạy cho chúng tôi hiểu thế nào là Toán học (toán học là gì).

Thế hệ thứ hai (giai đoạn 1964-1975), trong đó có tôi,  cố gắng chứng tỏ biết làm toán (thế nào là bài toán mới và kết quả mới).

Thế hệ tiếp theo (giai đoạn 1975 -????) sẽ đặt ra được những bài toán mới và  thu được những kết qủa tầm cỡ quốc tế, và chắc sẽ có người Việt đuợc giải thưởng Fields.

Nguyễn Duy Tiến

nduytien2006@yahoo.com

 

Home | Giới thiệu | Lịch sử | Thành tích | Học sinh | Album Ảnh | Videos | Phần mềm | Tài liệu | Giải trí | Liên kết

Copyright © 2011 Album Tổng hợp của Khối chuyên Toán-Tin Đại học Tổng hợp Hà Nội
Phone mobile: 0904070637 hoặc 0986838536
Email: lightsmok@gmail.com hoặc Yahoo Messenger: happidragon@yahoo.com